Tìm Kiếm Bài Đã Đăng

CÜ«i Ng†n SÃm - Ride The Thunder (4)
Thủy Quân Lục Chiến VNCH tái chiếm cổ thành Quảng Trị 1972

Thủy Quân Lục Chiến VNCH tái chiếm cổ thành Quảng Trị 1972


Một câu chuyện về Danh Dự và Vinh Quang trong cuộc chiến Việt Nam

Richard Botkin
(Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền)


Lời nói đầu của Ban Biên Tập

Được sự ủy thác của Richard Botkins và Trung tá TQLC Lê Bá Bình, một trong những nhân vật chính trong cuốn sách "Ride The Thunder," Ban Biên Tập Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y đang tiến hành công việc dịch thuật tác phẩm này qua tiếng Việt.

Nhằm cho bản dịch ít bị sai sót và giữ được sự trung thực, chúng tôi xin đón nhận mọi ý kiến đóng góp của quý độc giả. Xin chân thành cảm ơn quý vị.


Chương 1

Hồng Thủy Triều

Bản đồ thế giới đang bị nhuộm đỏ dần. Từ thành trì nước Mỹ vào cuối năm 1954 nhìn ra ngoài, tình hình thế giới không được lạc quan chút nào. Căn bệnh ung thư Cộng sản bất trị đã tấy lên và lây lan với mức độ đáng sợ. Liên Sô, Đông Âu, Trung Cộng, Bắc Hàn và bây giờ là đất nước Việt Nam bị chia cắt với bọn Cộng sản thống trị ở miền Bắc đang thèm khát nhòm ngó xuống miền Nam và có lẽ sang cả Lào và Căm-Pu-Chia nữa. Số lượng các dân tộc bị nô lệ tăng dần lên làm lu mờ đi niềm vinh quang của cuộc chiến thắng toàn diện từ sau Thế Chiến Thứ Hai.

Trong khi chủ nghĩa thực dân cũ bị sụp đổ và biến dần đi thì khoảng trống về chính trị và kinh tế đã tạo ra một thế giới thứ ba trong chiều hướng thù địch với sự hình thành non yếu của nền kinh tế tự do và đối với các chính phủ được bầu lên theo thể thức dân chủ. Dưới quan điểm của người Mỹ, khối liên kết Liên Sô-Trung Cộng tựa như một con quái vật khát máu, dị dạng đang nuốt chửng tất cả những gì nằm trên đường đi của nó và đang tìm mọi cách để mở rộng ảnh hưởng bằng cách xuất cảng tràn lan chủ nghĩa Mác-xít, giúp các phong trào nổi dậy và cái gọi là "chiến tranh nhân dân."

Tương tự như sự kiện Trân Châu Cảng đã lay động Hoa Kỳ thức tỉnh để ra khỏi sự cô lập và đã thúc đẩy đất nước này một cách toàn diện, tuy không tự nguyện, vào vai trò lãnh đạo của Thế Giới Tự Do, tình hình thực tế sau sự kết thúc của các cuộc xung đột lớn vào tháng 9 năm 1945 là yếu tố buộc anh chàng "khổng lồ" miễn cưỡng này phải thận trọng và đầu tư lâu dài của cải, tài nguyên nhân lực ở những mức độ chưa từng thấy hoặc ở mức cần thiết không tưởng tượng nổi nếu trong thời bình.

Kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong Thế Chiến Thứ Hai, quá lớn và mòn mỏi đối với tất cả các công dân Mỹ trên mọi phương diện rất khó mà xác định hay định lượng nổi toàn bộ, đã tạo ra các tiêu chuẩn mới để từ đó các hoạt động quân sự trong tương lai cũng như các phương cách đo lường thắng bại phải được xem xét lại.

Kinh nghiệm trận chiến Triều Tiên mà nước Mỹ tham dự từ tháng 6/1950 cho đến khi đạt được một cuộc ngưng bắn mong manh vào tháng 7/1953 hết sức khác biệt với niềm vinh quang toàn diện của Thế Chiến Thứ Hai mà người Mỹ vẫn còn mang trong lòng. Với cái giá phải trả là hơn 54 ngàn binh lính bị thiệt mạng, hơn 8 ngàn người mất tích vì công vụ và hàng trăm ngàn người khác bị thương, người Mỹ bình thường không có niềm tự hào vì không thể tuyên bố đó là một sự chiến thắng được. Người nào lạc quan lắm cũng chỉ có thể quan niệm rằng ít nhất nước Cộng Hòa Đại Hàn vẫn còn đứng vững và sự hiện diện của Hạm đội thứ bẩy tại eo biển Đài Loan đã chận đứng các âm mưu của Cộng sản muốn thôn tính Trung Hoa Quốc Gia và có thể ngay cả Nhật Bản nữa. Trong khi sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản đã tạm bị ngăn chận tại vùng Bắc của lục địa Á Châu thì căn bệnh ung thư tương tự lại bắt đầu phát triển về phía Nam.

Lê Bá Bình

Cha của Lê Bá Bình là người đã tác động  nhiều nhất đến ước muốn của anh là được trở thành một sĩ quan trong Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến mới được thành lập.

Ông tên là Lê Bá Sách, sinh năm 1910 tại một làng gần Hà Đông, một thị trấn nông thôn hơi chệch về hướng Nam và Tây của Hà Nội. Thấy ông là một thanh niên thông minh, gia đình đã lo cho ông đi Pháp vào cuối thập niên 1920 để theo học tại một trường đại học kỹ thuật và nhận được bằng kỹ sư. Sau khi trở về Việt Nam vào đầu thập kỷ 1930 ông gia nhập lực lượng Hải quân Pháp đóng tại vùng Sài Gòn. Vì là người Việt Nam, cho nên mặc dù có học, nhưng các cơ hội thăng cấp của ông đã bị hạn chế, do đó ông phải phục vụ dưới khả năng của mình như một hạ sĩ quan trên những chiếc tàu thuyền nhỏ của Hải quân Pháp đồn trú tại đó.

Năm 1930 mẹ vợ của ông Sách chuyển vào sống tại Sài Gòn để trông nom một quán ăn gần vùng Chợ Lớn. Cùng theo với ông Sách vào Sài Gòn là bà vợ mới cưới tên là Cát Thị Dần sinh trưởng từ tỉnh Sơn Tây gần Hà Nội. Bình được sinh ra năm 1937 và là người con trưởng trong số bốn người con của một gia đình Phật giáo truyền thống.

Một phần đất của Đông Dương thuộc Pháp sau này trở nên nổi tiếng đối với thế giới với tên gọi Việt Nam được tạo nên bằng ba khu vực riêng biệt. Ở phía Bắc, ngay bên dưới và tiếp giáp với Trung Quốc, là xứ Bắc Kỳ với nét đặc điểm địa lý chính yếu tác động đến dân cư là châu thổ sông Hồng. Về phía cực nam là vùng Nam Kỳ. Giống như miền Bắc, đặc điểm chính yếu của nó là khu vực đồng bằng to lớn hơn và là vựa lúa phì nhiêu của giòng sông Cửu Long hùng vĩ. Ở giữa hai vùng là miền Trung Kỳ với cái tên Annam là một vùng khó nhọc nuôi dưỡng dân cư ít hơn nhiều, với các cánh đồng dọc ven biển chật hẹp và chúng nhanh chóng biến thành núi rừng nếu ta di chuyển về hướng Đông qua Lào hay Căm-Pu-Chia.

Những kỷ niệm sớm nhất của Lê Bá Bình lúc còn thiếu thời chắc phải bao gồm các hồi ức về sự chiếm đóng của quân đội Nhật. Trên thực tế thì cái gọi là Khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á chẳng mang lại thịnh vượng gì cho người dân sinh sống tại Đông Dương. Rất nhiều lần cậu bé Bình đã thấy những tên lính Nhật vung kiếm chặt đứt tay một số người dân ngoài phố chợ Sài Gòn chẳng biết vì lý do gì.

Trong những cuộc du hành trong nước, ông Lê Bá Sách đã tận mắt chứng kiến một viên sĩ quan Nhật dùng kiếm chặt chân một ông già phu xe vì tội không cung kính hoặc vì đã di chuyển chậm chạp kém nhiệt tình. Tại quê nhà Hà Đông của ông có một phụ nữ lớn tuổi vốn đã từng bán gạo cho đạo quân Nhật Hoàng dùng để nuôi ngựa. Khi có một con ngựa trong đám bị chết sau khi ăn gạo do bà bán, bà già bị lôi ra và nhét tươi vào bụng mổ toang của con vật đã chết. Sau khi nhồi nạn nhân vào bụng xác con vật xong, bọn lính khâu lại và đứng chung quanh cười giỡn khi thấy xác con vật quằn quại với nhịp độ yếu dần khi bà già bị chết ngạt bên trong. Người dân xứ Đông Dương đã học một bài học đắt giá là quan thầy thực dân Pháp của họ không phải là siêu nhân. Khi làn sóng chiến tranh chuyển hướng bất lợi cho người Nhật và vòng vây các tiềm thủy đĩnh Hoa Kỳ chung quanh các hòn đảo Nhật Bản siết chặt dần, nhu cầu phải nhập cảng lương thực tăng vọt lên. Người Nhật thâu tóm hết ngũ cốc từ những vựa lúa mầu mỡ của sông Hồng và, ở mức độ thấp hơn, từ vùng sông Cửu Long để chuyển về nước. Tuy không có những thống kê chính xác nhưng các ước tính hợp lý cho biết trong giai đoạn 1944-1945 chỉ riêng miền Bắc đã có khoảng hai triệu trong số 10 triệu ngưòi dân đã thiệt mạng từ nạn đói gây ra bởi kẻ xâm lược và nạn hạn hán lại còn làm cho tình hình tồi tệ thêm. So với Trung Hoa lúc đó cũng phải chịu đựng cảnh khốn cùng trong tay người Nhật, Việt Nam có lẽ đã phải trả cái giá cao hơn cho việc bị ép buộc gia nhập vào khối Thịnh Vượng Chung Đại Đông Á. (Các sự phỏng đoán được chấp nhận cho thấy số lượng người Trung Hoa bị thiệt mạng trong Thế Chiến Thứ Hai vào khoảng 10-12 triệu người kể cả đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Với một dân số khoảng 500 triệu vào lúc đó, gần 2% người Trung Hoa đã chết. Dân số Việt Nam ước tính cho ba miền Bắc, Trung và Nam vào khoảng gần 30 triệu mà đã có tới từ một đến hai triệu người chết tức từ ba đến sáu phần trăm dân số bị thiệt mạng. [Theo các nguồn tài liệu khác nhau]).

Trong cuộc họp cuối cùng của nhóm Tam Cường tại Postdam vào tháng 7/1945, Truman, Stalin, Churchill và các ban tham mưu của họ đã làm nhiều hơn là chỉ bàn thảo việc tìm kiếm kết quả cuối cùng cho cuộc chiến tại Âu Châu cũng như hoàn thiện chiến lược đánh bại nước Nhật. Trong các vấn đề phụ thuộc đối với các nước khác nhưng lại có ảnh hưởng đối với Đông Dương là thỏa thuận khi cuộc chiến chấm dứt tại vùng Thái Bình Dương. Quân đội Trung Hoa Quốc Gia sẽ giải giới quân đội Nhật tại miền Bắc xuống tới vĩ tuyến 16. Ở phía Nam, công việc tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật sẽ do các đơn vị của quân đội Anh quốc trong đó có cả binh lính Ấn Ðộ đảm nhận.

Bình nhớ lại sự xuất hiện của người Anh và đồng minh người Ấn khi họ đến Sài Gòn. Hai nhóm rất khác biệt với nhau. Nhóm người Anh, mệnh danh là "Tommies" rất vui vẻ, thân thiện và thoải mái trong những lần tiếp xúc với trẻ em Việt Nam. Mặc dù không biết một chữ tiếng Anh nào nhưng Bình nhận ra ngay một nụ cười và chắc chắn là rất thích thú với cái kẹo mà những người lính trẻ ném cho đám trẻ con đang theo đuôi từng đoàn. Khác với người Anh, và có lẽ vì họ cũng đến từ một quốc gia nghèo nên người Ấn có vẻ tính toán hơn, tằn tiện, lầm lì và chẳng cần biết họ có được cảm tình của chủ nhà nghèo hèn người Việt hay không.

Dường như có một yếu tố bất biến trong hơn hai ngàn năm lịch sử được ghi lại của Việt Nam là các cuộc đấu tranh, xung đột, gian khổ và đau buồn quá liên tục đã làm cho con người trở thành quen thuộc luôn với nó. Nước Việt Nam hình như lúc nào cũng có chiến tranh, cho dù là chống người Chàm từ Căm-Pu-Chia, người Tầu tràn xuống từ hướng Bắc, hay giữa các bộ tộc Nguyễn và Trịnh trong những trận chiến cốt nhục tương tàn với nhau. Lịch sử dân tộc này suốt hai ngàn năm đầy rẫy các vị anh hùng và anh thư trong cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ chống giặc ngoại xâm.

Khởi đầu bằng hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị vốn là những người đã chiến đấu và thành lập một vương triều trải dài đến vào tận trong miền Nam nước Tầu vào thập niên 40 trước Công Nguyên, đến Triệu Ẩu vào thế kỷ thứ ba, một phụ nữ Việt Nam tương tự như nữ anh hùng "Jeanne d'Arc" của Pháp, rồi đến Trần Hưng Ðạo, Lê Lợi, Lê Thánh Tông cho đến Phan Đình Phùng, văn hóa nước Việt gồm thật nhiều các nhân vật nam và nữ đầy dũng cảm, gan dạ mà gương hy sinh được truyền bá đến tất cả các thế hệ trẻ về sau.

Gần đây hơn cuộc đấu tranh chuyển qua chống lại người Pháp rồi tiếp theo là người Nhật. Nay quân Nhật sửa soạn rút đi, chưa rõ đến lượt kẻ thù nào sẽ thế vào chỗ trống đã được tạo ra. Sự đau khổ, đói kém và chết chóc là những chuyện thường ngày trong chuỗi nhân sinh tại Việt Nam như thể việc sinh ra, niềm vui và sự thỏa mãn vậy. Ai có thể khẳng định đời sống dưới thời kỳ Nhật là khổ nhất?

Có thể đúng như vậy thật. Những người không bị mất mạng ngay vì nạn đói đã trở nên yếu ớt và dễ bị mắc bệnh hơn. Vào năm 1946, một cơn dịch cúm đã cướp đi rất nhiều nạn nhân. Trong số đó có mẹ của Bình đã chịu đựng căn bệnh trong ba ngày trời trước khi qua đời để lại người chồng, Bình, đứa em trai và hai em gái của Bình trong một tương lai không lấy gì làm chắc chắn.

Sau khi chịu thất trận nhục nhã dưới tay người Đức trong Thế Chiến Thứ Hai, nước Pháp chỉ lăm le muốn đưa các thuộc địa cũ của mình về lại tình trạng tiền chiến. Trong khi nước Anh cùng chia sẻ ý định đó thì người Mỹ không có khuynh hướng phục hồi lại chế độ thực dân của thế giới cũ. Tuy nhiên vì làn sóng chủ nghĩa Cộng Sản đang dâng lên trên lục địa châu Á nên dường như không có nhiều sự chọn lựa lắm. Hồ Chí Minh được xem như là một viên gạch nữa đắp thêm vào khối đá Cộng sản đang lớn mạnh dần. Ngoài ra sau khi bị mất Trung Hoa và tiếp theo là trận chiến ở Triều Tiên, sự hỗ trợ của nước Mỹ đối với người Pháp là một sự chọn lựa tất nhiên và khẩn cấp.

Phong trào người Việt Quốc Gia nóng lòng đấu tranh tháo bỏ ách thực dân trên thực tế đã diễn ra từ trước khi quân đội Nhật nắm quyền hành tại vùng Đông Dương thuộc Pháp. Hồ Chí Minh mà sau này được thế giới coi như là đại diện của chủ nghĩa quốc gia Việt Nam thực chất chỉ là nhân vật còn sót lại sau khi đám lâu la của hắn đã ám sát hết những ai có thể là mối đe dọa cho vai trò lãnh tụ của hắn ở phía Bắc. Tại miền Bắc, nhất là sau chiến tranh, các phong trào quốc gia không theo Cộng sản hoặc là bị thanh trừng một cách tàn bạo bởi tay sai của Hồ Chí Minh, hoặc phải hợp tác với người Pháp và bị mang tiếng tiếp tay cho ngoại xâm. Cộng sản chẳng khó khăn gì tuyên truyền khép tội những người chống đối bọn chúng là họ đánh mất chính nghĩa và không thật lòng yêu nước. Chúng cho rằng những người này chỉ là công cụ và bị Pháp giật dây, mà trong một vài trường hợp điều đó lại đúng. Những lời kết tội này cũng được áp dụng đối với người Mỹ và những người nhận sự giúp đỡ của Mỹ từ 1954 trở đi.

Người Pháp ít đầu tư vào việc đào tạo và nâng cao vai trò lãnh đạo về chính trị và quân sự của người dân Việt Nam thành thử vai trò chỉ huy có vẻ đi theo thuyết Darwin tức luật sống còn của sự tàn nhẫn, xảo quyệt và tham nhũng trong cả miền Bắc lẫn miền Nam.

Các phong trào quốc gia khắp lục địa Á Châu có vẻ được kích thích từ sau chiến thắng của nước Nhật đối với người Nga vào năm 1905. Không có nơi nào mà dân bản xứ lại nóng lòng giành độc lập mạnh hơn là Đông Dương. Tuy nhiên ngoại trừ mục đích chung là đánh đuổi người Âu Châu, ít khi có vấn đề nào khác mà các nhóm quốc gia khác nhau lại có thể đồng thuận với nhau. Trong khi người Kinh chiếm khoảng 80% dân số các vùng miền Bắc, Trung và Nam Bộ thì có vào khoảng 50 nhóm thiểu số khác được phân bổ suốt dải địa dư dài và hẹp của cái quốc gia phôi thai đó. Những người gốc Hoa là nhóm thiểu số lớn nhất. Bao gồm gần 2% dân số, sự tập trung của họ ở những khu vực đô thị và sự thống trị của họ trong ngành buôn bán đã tạo cho họ một sự ảnh hưởng vượt mức tương xứng với dân số. Những người Thượng, H'mông, Nùng, và những sắc tộc thiểu số khác thường thấy nhiều hơn ở những vùng biên giới và núi đồi xa xôi.

Tinh thần quốc gia lên cao nhất tại Việt Nam vào cuối những năm 1920. Giới công nhân Việt Nam từ những người thợ trong kỹ nghệ may mặc đến những người phu xích lô đã tổ chức được các cuộc đình công lớn với một vài thành công nhất định. Thanh niên Cách mạng Ðồng Chí Hội, với khuynh hướng thiên cộng rõ rệt, đã được thành lập bởi Hồ Chí Minh tại miền Nam Trung Quốc vào năm 1925. Tháng Mười Hai năm 1927 Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) được thành lập. Các thành viên bao gồm hầu hết là những sinh viên, công chức cấp thấp, các binh lính, nông dân, và thậm chí có một số điền chủ cũng tham gia [1]. VNQDĐ được phỏng theo mô hình Quốc Dân Đảng của Trung Hoa, và bị Cộng sản cho là một đối thủ trực tiếp nhất. Vào tháng Sáu năm 1929 Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD) chính thức ra đời. Cùng với Hồ Chí Minh, những người khác hiện diện ở ngày khởi đầu của đảng bao gồm Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng, là những người vốn sẽ đảm nhận những vai trò quan trọng trong các vấn đề của Ðảng Cộng Sản trong cuộc đấu tranh sắp tới bên cạnh người đàn ông một thời được biết đến như là Nguyễn Ái Quốc hoặc “Nguyễn Patriot.” (Hồ Chí Minh từ lúc đầu được người ta biết đến bằng nhiều tên họ khác nhau).

ĐCSĐD xuất hiện ngay khi cuộc Đại Khủng Hoảng tàn phá khắp toàn cầu. Tại vùng Đông Dương thuộc Pháp sự suy thoái kinh tế toàn thế giới làm gạo và cao su bị mất giá, cũng như ngành xuất cảng bị suy giảm, làm cho biết bao nhiêu người bị mất công ăn việc làm, mất nguồn thu nhập hoặc phương tiện để nuôi sống gia đình. Chủ nghĩa Cộng sản vì vậy trở nên hấp dẫn và đà ảnh hưởng tăng nhanh đối với những người bị mất định hướng đó.

Các hoạt động chính trị này đã gây được sự chú ý của giới cầm quyền người Pháp, họ đã đầu tư rất nhiều các phương tiện về cảnh sát và quân đội nhằm đàn áp các nhóm quốc gia mới nổi lên. Ảnh hưởng của ĐCSĐD mạnh nhất tại miền Bắc. Trong khi đó tại miền Nam thì sự phát triển kém hơn vì có các nhóm khác chia sẻ ảnh hưởng của họ. Với tinh thần chống Pháp và đòi độc lập không kém gì đảng Cộng sản, Hòa Hảo và Cao Đài đã thu hút được một tỷ lệ lớn những người yêu nước muốn dấn thân (*)

Khi Đức Quốc xã và Liên Sô ký kết thỏa hiệp bất tương xâm vào tháng 8 năm 1936, nước Pháp ban hành đạo luật đặt đảng Cộng sản và tất cả các đảng phái chính trị khác tại Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật. Hành động này buộc ĐCSĐD phải rút hoạt động về vùng nông thôn và về lâu về dài đã củng cố được lực lượng, đặc biệt là tại miền Bắc [2].

Trong số những khó khăn mà các lực lượng quốc gia còn non yếu ở Ðông Dương đang phải đối đầu thì địa dư là một trong những trở ngại ác độc nhất. Từ mỏm cực Bắc của miền Bắc giáp ranh giới nước Tầu cho đến điểm cực Nam của miền Nam Bộ trải dài gần một ngàn mốt dặm, các địa hình thay đổi khác nhau và phân vùng tách biệt nhau. Hà Nội và Sài Gòn là hai thành phố lớn nhất vùng Đông Dương nhưng lại cách nhau đến 750 dặm và chỉ được nối với nhau bằng một đường xe lửa tí hon và quốc lộ 1 với nhiều đoạn chỉ là đường mòn gấp đôi đường xe bò mà thôi. Khoảng cách từ Hà Nội đến Sài Gòn giống như khoảng cách giữa các thành phố Denver và St. Louis, Chicago và Charleston, Omaha và Tuscaloosa, Boston và Grand Rapids, Seattle và Santa Cruz, New York và Nashville, Des Moines và Atlanta, hoặc Minneapolis và Little Rock, nhưng cho đến cuối cuộc chiến, vẫn giống như hai thế giới cách biệt nhau. Sự phân cách về địa dư đã tạo cho Cộng sản có cơ hội củng cố lực lượng tại địa phương và trên một bình diện nhỏ hơn đối với các nhóm người quốc gia trong miền Nam cũng vậy.

Những sự xáo trộn bởi sự triệt thoái của quân đội Nhật và khả năng tương đối yếu kém của các lực lượng thuộc địa Pháp đã làm cho Hồ Chí Minh và Việt Minh tin rằng họ đã có một cơ hội bằng vàng để hành động. Ngày 28 tháng 8 năm 1945 họ tuyên bố thành lập Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hồ Chí Minh được cử làm chủ tịch thứ nhất. Nhằm mở rộng lời kêu gọi, Cộng sản cũng mời Cựu hoàng Bảo Đại tham gia vào chính phủ lâm thời. Những sự kiện tiếp theo đó là hàng loạt các tác động và phản tác động của người Pháp và Việt Minh cuối cùng đã dẫn đến một cuộc chiến tranh mở rộng.

Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng, vốn tách ra từ VNQDĐ, đều nóng lòng thiết lập một thể chế Cộng hòa nhưng đều không chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản. Mặc dù đã từng liên minh, tuy lỏng lẻo với Việt Minh để chống lại sự cai trị của ngoại bang tại Việt Nam nhưng vào đầu năm 1946 các đảng viên cao cấp cùng với gia đình họ đã bị phe Cộng sản thanh trừng một cách có hệ thống bằng một loạt các hành vi nhằm loại trừ mối nguy hiểm cho sự cai trị của Hồ Chí Minh ở miền Bắc. Trong khi đó thì họ vẫn phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống Pháp.

Xáo trộn về chính trị là một điều tất nhiên do khoảng trống quyền lực quân đội Nhật đã để lại sau khi họ đầu hàng và rút đi. Liền theo đó là sự trở lại của các lực lượng người Pháp với toan tính tái lập lại quyền thuộc địa. Trước sự kiện có các xung đột nội bộ giữa các phe phái quốc gia với nhau thì Việt Minh tỏ ra mạnh hơn ở miền Bắc, tuy có kém hơn ở miền Nam. Người Pháp không hề có ý định chịu thua Hồ Chí Minh. Những cuộc thương thuyết của hai bên đã tỏ ra vô ích. Trong khi đó thì các cuộc đụng độ giữa các đơn vị quân sự đôi bên tăng dần lên. Đến tháng 11 năm 1946 thì mọi cố gắng để đoạt một thỏa thuận về chính trị bị đổ vỡ. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất như chúng ta biết đến bắt đầu. Mọi sự trở nên rắc rối hơn khi Việt Minh tổ chức ám sát đức thầy Huỳnh Phú Sổ, thủ lãnh của phe Hòa Hảo ở miền Nam. Tiếp theo cái chết của ông thì cả hai phái Hòa Hảo và Cao Đài đều hợp tác với người Pháp.

Theo truyền thống văn hóa của nước Việt Nam, Lê Bá Sách để tang vợ, đồng thời là mẹ của bốn đứa con trong vòng ba năm. Vì còn trẻ nên ông tái giá vào năm 1949. Bình, đứa em trai và hai em gái của ông trong những năm sau đó đã có thêm bẩy người em tiếp theo cuộc hôn nhân lần thứ hai của cha mình. Vì là một gia đình có nề nếp nên tất cả đều hòa thuận với ngưòi mẹ kế.

Đối với hầu hết các nền văn hóa Á Châu, ảnh hưởng của Khổng giáo rất mạnh mẽ. Lòng sùng bái đối với các bậc trưởng thượng, đối với gia đình và giáo dục đặc biệt quan trọng. Con trai được coi trọng hơn con gái và đứa con trai đầu lòng luôn luôn đứng hạng nhất trong mọi gia đình. Với tư cách là anh cả, nhiệm vụ duy nhất của Bình lúc còn là một đứa bé là đi học. Do đó từ lúc còn rất nhỏ Bình đã đảm nhận nhiệm vụ mình và học hành chăm chỉ.

Nhà của gia đình Bình thuộc xóm Tân Định, một khu vực được coi tương đương như là "phố chính" của Sài Gòn mà họ có thể tậu được. Khá gần trung tâm thành phố, chỉ cách sông Sài Gòn vào khoảng vài con đường, đó là một nơi chốn ấm cúng, an toàn cho ông Lê Bá Sách tạo mái ấm cho bà vợ mới cưới và nuôi nấng 11 người con của họ.

Căn nhà của ông Lê Bá Sách khá điển hình theo tiêu chuẩn người Việt Nam. Vào thời gian đó có thể gọi họ thuộc thành phần cao của giai cấp trung lưu. Ở tầng trệt ngó ra một cái hẻm hẹp, xe đạp của cả nhà được dựng ngay bên ngoài, chừa đường đi và nằm trong khuôn viên căn nhà. Giày dép luôn luôn để phía ngoài cửa cái rộng và xếp hàng ngay ngắn. Khu vực mà khách khứa hay bạn bè đến chơi và gian bếp chiếm gần hết cái tầng trệt này. Cả nhà ngủ trên tầng hai và ba, tuy nhiên họ cũng giữ một cái bàn thờ truyền thống phía ngoài trên tầng hai, một loại bàn thờ rất thông dụng trong các gia đình Việt Nam dù giàu hay nghèo. Nhang đèn được thắp thường trực và các di ảnh được sắp xếp tùy theo mức độ quan trọng của những người đã quá cố.

Các con hẻm hẹp dẫn ngược từ lộ chính vào được chia ra nhiều ngõ ngách khác khá tối tăm nhưng mở ra vùng trời bên trên. Khoảng đất trống chỉ được chiếu sáng khi mặt trời lên đỉnh đầu lại là khu vực vui chơi chính cho hàng chục đứa trẻ con từ hơn hai chục căn nhà cùng chung con hẻm này. Lối vào duy nhất có một cái cổng hẹp khá chắc chắn, tuy ít khi nào được đóng lại nhưng có thể khóa lại nếu cần. Bình và đồng bọn thường có nhiệm vụ canh gác nó để chống lại các băng đảng bên ngoài xâm nhập vào trong những lần chơi đánh lẫn nhau. Chúng không dè rằng chính những cái cổng này, rất thông dụng trong khắp các phố ở mọi nơi trong thành phố lại có một tầm mức chiến thuật quan trọng trong cuộc phòng thủ thực sự để chống lại sự xâm nhập của Việt Cộng trong cuộc công kích Tết Mậu Thân năm 1968.

Bàn tay vô hình của kinh tế tự do rất rõ ràng tại các đường phố Tân Định cũng giống như ở Denver, Detroit, Paris hay Amsterdam vậy. Cũng được thể hiện một cách quyết liệt và có hiệu quả. Những người bán hàng rong đủ loại đứng rao bán quần áo, nồi niêu xoong chảo, các loại thức ăn và đồ gia vị, gạo bún, trái cây và rau quả trồng tại chỗ, đủ các loại cá bắt gần đó, cũng như thịt lợn và thịt gà xẻ tại chỗ trong xóm. Nếu có một chiếc xe đạp hay đồ đạc máy móc nhỏ cần sửa chữa thì có sẵn thợ hàn thợ tiện chữa ngay trên vỉa hè. Nếu có vài đồng trong túi, một đứa bé không bao giờ chịu đứng xa nơi bán nước giải khát hay gánh hàng rong. Những người bán hàng rong trái cây liên tục rảo bước trên các con đường, đẩy những chiếc xe ba gác chứa đầy xoài mới hái, đu đủ, sầu riêng và mít tươi. Nếu khát nước thì đã có sẵn những người bán nước dừa tươi mát lạnh có thể uống thẳng từ những trái dừa đã gọt vỏ bằng những cái ống hút nhỏ. Trẻ con và cả người lớn dễ tính có thể thưởng thức những ly nước mía được ép từ những thân cây mía nhỏ gọt sạch chạy qua những cái máy ép trên lề đường. Những cái máy này này cô đọng được mùi vị thơm ngọt tự nhiên của mía, nhưng cũng làm cho bệnh sâu răng rắc rối thêm.

Công việc buôn bán quay nhanh theo tốc độ đạp mạnh mẽ của những người đàn ông gân guốc, lực lưỡng già cũng như trẻ. Họ có thể chuyên chở và lèo lái những khối nặng kinh hồn cùng những đồ vật đủ loại hình dáng mà bằng cách nào đó họ đã xếp lên được những chiếc xe đạp hay chồng chất trên xe xích lô. Mặc dù không mấy ai thật sự cao lớn khỏe mạnh nhưng đối với tất cả những người tháo vát và chịu khó làm lụng thì luôn luôn vẫn có cái mà ăn. Các con đường chạy ngang khu Tân Định sống động sinh hoạt buôn bán suốt ngày. Ngay cả về đêm, thành phố cũng không bao giờ ngủ mà sinh hoạt dường như chỉ chùng xuống mà thôi.

Bọn trẻ không màng đến các vấn đề chính trị với tất cả những gì đang xảy ra trên khắp nước Việt Nam và tại Sài Gòn mà chỉ chú tâm vào việc học hành và nô đùa với chúng bạn cùng xóm. Người thân thiết nhất với Bình là đứa em tên An, kém hai tuổi. An và Bình kết bè với những đứa khác trong xóm thành một trong hai nhóm băng đảng. Với lứa tuổi đó và trong thời kỳ ấy thì mục đích của bọn chúng chỉ là vui chơi, tranh đua về thể thao và chơi những trò trận chiến giả. Nếu có lỡ làm đổ máu thì chỉ là vô tình hay hăng máu quá mức mà thôi. Sự thiếu thốn về vật chất hay không có sẵn những loại đồ chơi được sản xuất trong nhà máy không hề làm giảm bớt tính sáng tạo của trẻ con vùng Tân Định.

Bình, An và lũ trẻ  Tân Định suốt ngày đá banh trong các ngõ hẻm và trên những bãi trống dọc theo bờ sông bằng những trái banh cao su được sản xuất trong xóm. Giống như những đứa trẻ khắp nơi trên thế giới, trẻ con Việt Nam cũng chơi bắn bi không chán nhưng điểm khác biệt là viên bi được giữ bằng ngón tay giữa và kéo ngược lại bằng tay kia để tạo ra sức bật.

Đầy sáng kiến hơn nữa, bọn trẻ Tân Định đi thu nhặt những bao thuốc lá bỏ đi làm bằng giấy cạc tông mỏng nhưng khá cứng. Chồng những cái bao thuốc lá này lên nhau, chúng đứng lui ra sau và cố gắng tạt bằng cục đá hay hòn sỏi. Tương tự như những viên bi, các bao giấy nhỏ này trở thành những tài sản và sở hữu riêng của những tay xạ thủ lỗi lạc, cũng là một cách để đánh giá mức sắc bén về thể chất và sự khéo tay. Đối với hầu hết bọn trẻ trong nhóm thì bản năng chơi những trò chơi về chiến tranh là điều đương nhiên. Cậu bé Bình và băng nhóm suốt ngày đi rảo trong xóm mang theo súng giả đẽo từ những khúc gỗ có thể bắn ra những sợi giây thun với độ chính xác khá cao.

Thú vui nghe nhạc thu thanh và radio thì nằm ngoài tầm tay của hầu hết người dân Ðông Dương vào khoảng thời gian cuối thập niên 1940 và đầu 1950. Vì vậy nhà của cái gia đình giàu nhất vùng Tân Định mà ông chủ là một người làm công cho chính phủ Pháp được cả xóm chiếu cố bu lại mỗi khi cái máy nhạc Victorola được lên dây cót hoặc cái radio được vặn lên. Mặc dù  âm nhạc là một điều gì mới mẻ được du nhập từ Pháp hay Mỹ, và bản nhạc có thể chỉ là một bản nhạc xưa, dân ca, hay tình ca khá đặc thù đối với người dân ba miền Bắc Trung hay Nam, nhưng những người lớn tuổi lúc nào cũng say sưa mỗi lần nghe tiếng cót két nổi lên từ cái đĩa xoay màu đen hay cái hộp gỗ sơn bóng.

Đối với người dân không có ngày lễ nào của Việt Nam có thể sánh nổi về mức độ trang nghiêm, ý nghĩa, lòng háo hức và phấn khởi bằng ngày Tết, ngay cả đối với những người không theo đạo Phật. Tết Nguyên Đán - Năm mới âm lịch - bắt đầu từ ngày đầu của tháng Giêng âm lịch và là mùa đầu tiên trong năm. Thường trùng vào khoảng cuối tháng Giêng hay đầu tháng Hai dương lịch, Tết Nguyên Đán vừa mang vẻ thế tục vừa có tính cách thiêng liêng. Ngày lễ quá lớn thành thử tất cả mọi người Việt Nam đều vui hưởng. Tết là một dịp để gia đình, bạn bè thăm viếng nhau, để thờ phụng những người quá cố và là một thời gian để ôn cố truy tân. Đặc biệt đối với trẻ con đó là một thời điểm thật thú vị được đánh dấu bằng những cuộc vui chơi, được lì xì và mặc quần áo mới, được đốt pháo còn đồ ăn ngon lại được dọn ra ăn thả dàn.

Bình rất thích những món ngon trong ngày Tết. Mẹ cậu và các phụ nữ khác thường nấu các món ăn từ nhiều ngày trước và luôn miệng suỵt đuổi những đám trẻ hau háu bu quanh như ruồi chờ một miếng chỗ này, một hớp chỗ kia, lúc nào cũng nôn nao để được ăn thử một cái gì đó mà người lớn có thể ban cho. Ngoài bánh kẹo ra, Bình rất thích bánh chưng - những chiếc bánh hình vuông làm bằng gạo nếp, thịt heo và đậu xanh gói trong những cái lá giong rồi bỏ vào nồi nấu. Bình cũng thích bánh tét - một loại bánh làm bằng gạo nếp gói hình tròn có vẻ giống bánh kẹp xốp hơn. Cho đến khi trưởng thành, đối với Bình, Tết vẫn luôn luôn là một thời điểm với nhiều điều mừng vui nhất.

Vào khoảng thời gian giữa các năm 1946 và 1952, ông Lê Bá Sách đã đưa gia đình năm sáu lần về quê miền Bắc để thăm mẹ và các ông cậu cùng cách cháu còn ở lại Hà Đông. Từ lâu trước 1952 điều hiển nhiên là Cộng sản đã trở thành một lực lượng đáng kể. Đối với ông Sách, sự nhận thức ra rằng Cộng sản đã thống trị miền Bắc là một viên thuốc đắng khó nuốt trôi. Ông đau đớn thấy được là cuộc chiến giữa Việt Minh và người Pháp sẽ làm cho gia đình ông phải trả một cái giá rất đắt.

Ngay trước khi lực lượng Pháp trở lại Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai, bà nội Bình, một điền chủ nhỏ vùng Hà Đông, đã cảm thấy sự đe dọa trắng trợn và áp lực ngày càng nặng nề của bọn cán bộ Cộng sản và lời lẽ tuyên truyền xảo quyệt của họ. Vài năm sau khi bọn tay sai của Hồ Chí Minh tịch thu đất đai của bà để giao cho "Cách mạng và nhân dân" vào năm 1956, chúng lại còn tỏ vẻ nhân đạo và khoan hồng đối với bà. Vì thuộc thành phần tư sản ác ôn, điền chủ hút máu đáng lẽ gia đình bà đã bị giết hết, bằng một phát súng vào sau gáy, hoặc bị trói gô lại, đeo đá và thả từ từ xuống đáy ao hồ hay sông sâu rồi. Thay vào đó, bọn chúng bắt bà phải chịu nỗi ô nhục sống sót trong một phần nhỏ cái tài sản cũ của bà - nay đã thuộc về "Cách mạng" - chỉ còn là cái chuồng heo hay chuồng gà trước kia.

=============
* Hòa Hảo là một giáo phái Phật giáo được cải đổi theo cách riêng của người Việt Nam được thành lập ở miền Nam Việt Nam bởi đức thầy Huỳnh Phú Sổ vào năm 1939. Người Pháp quan niệm giáo phái Hòa Hảo là một mối đe dọa chính trị, tuy nhiên họ chống cộng một cách mãnh liệt, đặc biệt là sau khi đức thầy Huỳnh Phú Sổ bị Việt Minh ám sát chết vào năm 1947.
Cao Đài được thành lập vào thập niên 1920 và giống như Phật giáo Hòa Hảo, cũng là một giáo phái riêng biệt của người Việt Nam. Phát sinh ở miền Nam Việt Nam, Cao Đài là một sự pha trộn giáo lý của Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo, và Ấn Độ giáo. Những người muốn theo đạo được kỳ vọng là họ sẽ từ bỏ vật chất nhằm bồi dưỡng sự phát triển tâm linh. Do mang tính chất tôn giáo nên các tín đồ Cao Đài giống như Hòa Hảo, cũng chống Cộng sản theo truyền thống. Cao Đài dùng những nhân vật đồng cốt và những người thông công tâm linh để dùng trong những buổi Cơ Bút. Những vị thánh quan trọng của Cao Đài bao gồm Trạng Trình, Tôn Dật Tiên, Jeanne d'Arc, René Descartes, William Shakespeare, Victor Hugo và Louis Pasteur.


Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2013
Loading
Nguyên tác tiếng Anh