Tìm Kiếm Bài Đã Đăng

 
image021 (2)
CÜ«i Ng†n SÃm - Ride The Thunder (7)
Một câu chuyện về Danh Dự và Vinh Quang trong cuộc chiến Việt Nam

Richard Botkin
(Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền)


Chương Hai (3)

Đến năm 1962 thì binh chủng TQLC với tám năm thành lập ngắn ngủi đã được tăng cường thêm Tiểu đoàn 3. Với Tiểu đoàn pháo binh cơ hữu, một Tiểu đoàn hỗ trợ đổ bộ và một ban  tuyển mộ huấn luyện đã đủ lông đủ cánh, TQLC Việt Nam đã có khả năng đưa vào chiến trường cả một Lữ đoàn đầy đủ. Vào thời điểm Bình được gắn lon Thiếu Úy với vạch vàng lên cầu vai, đã có gần sáu ngàn quân nhân Việt Nam được đặc quyền mặc bộ đồ trận rằn ri riêng biệt của binh chủng với châm ngôn "Danh Dự - Tổ Quốc."

Sau khi tốt nghiệp trường sĩ quan, sáu mươi Thiếu úy TQLC tân khoa được theo khóa thực tập một tháng tại Thủ Đức để học tập thêm về các đường lối của binh chủng, tập trung vào các chiến thuật bộ binh và đổ bộ, đồng thời để chuẩn bị cho họ đảm nhận công tác chỉ huy ngoài mặt trận ở cấp độ Trung đội và Đại đội. Bình đã tốt nghiệp thủ khoa trong toàn khóa huấn luyện này.

Vào lúc đó, Trung tá Lê Nguyên Khang là một sĩ quan cao cấp của TQLC vừa nhận quyền chỉ huy Tiểu đoàn 3, còn được mệnh danh là "Sói Biển." Hãnh diện vì đơn vị cũ của mình, ông muốn đưa các sĩ quan trẻ tuổi đầy triển vọng về Tiểu đoàn "Sói Biển" thân thương của ông. Và đó chính là lý do tại sao Bình đã được điều về Tiểu đoàn 3 TQLC.

Các sĩ quan TQLC Hoa Kỳ được giao nhiệm vụ cố vấn cho các TQLC Việt Nam thường thấy nhiều điểm tương đồng với họ vì những người này đã tiếp nhận một cách nhanh chóng tinh thần dẻo dai và niềm tự hào đơn vị mà các cố vấn Mỹ đã truyền bá thành công trong tâm trí họ. Do giá trị quân sự xuất chúng nên các Lữ đoàn TQLC và Nhẩy Dù Việt Nam nổi tiếng đã được chỉ định là lực lượng tổng trừ bị cho toàn bộ QLVNCH vào giữa năm 1959. Hai đơn vị này tuy nhỏ nhưng đáng tin cậy đã trở thành lực lượng ứng trực của quốc gia, các Lữ đoàn "lửa" để sử dụng trong trường hợp cực kỳ khẩn cấp và là những đơn vị để được gởi đi hoàn thành các nhiệm vụ khó khăn nhất.

Đơn vị triển khai chính của TQLC là cấp Tiểu đoàn. Được tổ chức tương tự như các Tiểu đoàn TQLC Hoa Kỳ bạn, hoạt động Tiểu đoàn TQLC Việt Nam còn mang sắc thái của hệ thống Trung đoàn Anh quốc trong các hoạt động có tính cách lâu dài. Là một nhánh nhỏ của quân đội, chưa có bề dầy lịch sử hoạt động nào đáng kể cho nên điều hiển nhiên là các sĩ quan và quân nhân thường được giữ lại trong đơn vị rất lâu tùy theo nhu cầu thực tế. Tuy chưa có ai đủ thâm niên để có thể coi thời gian phục vụ trong TQLC là một binh nghiệp nhưng điều hợp lý là một quân nhân, nếu sống sót qua các chiến trận, có thể được giữ lại trong cùng một Tiểu đoàn trong suốt thời gian phục vụ của anh. Những người chống đối hệ thống này cho rằng điều này có thể bóp nghẹt sự cải cách và ngăn không cho những nguồn "máu" mới được bổ sung vào. Lập luận ngược lại là mặc dù có sự phân loại về đẳng cấp, một môi trường có tính cách gia đình sẽ đóng góp vào nỗ lực chung và tinh thần đồng đội.

Tinh thần chiến đấu của TQLC là một sự pha trộn nét đặc thù Việt Nam và một phần ảnh hưởng của Hoa Kỳ. TQLC Việt Nam cũng giống như bên phía Hoa Kỳ là không hề có một mẫu người riêng biệt nào khi họ tình nguyện vào lính. Tuy vậy cũng có các nhóm người đại diện khác nhau. Chẳng hạn như đối với các giáo phái đặc biệt bị Cộng sản để ý đến như các thanh niên gốc Hòa Hảo và Cao Đài thì họ cho việc gia nhập TQLC là một cách để phục thù lại. Và trong khi báo chí Mỹ thường xuyên trong nhiều năm dài nói về các thanh niên Việt Nam tìm cách trốn tránh hoàn toàn nghĩa vụ quân sự hoặc ít nhất là phục vụ trong những vị trí an toàn đến tính mạng thì không hề thiếu các thanh niên Việt Nam yêu nước khác tin tưởng là chủ nghĩa Cộng sản không phải là câu giải đáp và quan niệm việc nhập ngũ vào TQLC là phương cách tốt nhất để đóng góp cho nền Tự Do của miền Nam Việt Nam.

TQLC Việt Nam là một tổ chức tình nguyện. Việc gia nhập thường lệ, tối thiểu lúc tân tuyển, là ba năm. Công tác huấn luyện dài tám tuần được tổ chức tương tự như các phương cách của TQLC Hoa Kỳ. Rất nhiều huấn luyện viên Việt Nam đã từng học tại San Diego và Parris Island.

Các sĩ quan được giao phó trách nhiệm với thời gian lâu dài hơn. Theo dòng chiến sự, nếu không bị tử trận hay trọng thương thì họ được giữ quân vụ một cách vô hạn định. Và cũng giống như các cấp bậc đã nhập ngũ khác, sĩ quan TQLC Việt Nam không nằm trong bất cứ nhóm người đặc biệt nào khác. Họ bao gồm những người miền Nam, người Bắc di cư, Phật tử và Công giáo.

Không có nơi nào mà sự tôn trọng Khổng giáo và quyền hành theo cấp bậc rõ ràng hơn là trong TQLC. Trong bốn quân chủng Hoa Kỳ thì TQLC là tổ chức chú trọng đến sự phục tùng các cấp trên nhiều nhất. Đối với những người không biết hoặc ngoại cuộc thì họ không hề cảm nhận được cái tình cảm sâu sắc thường chỉ biểu hiện dưới bề mặt sự tương quan giữa sĩ quan và các quân nhân hoặc sĩ quan cao cấp và cấp dưới của mình. Tuy các sĩ quan ít khi gọi thuộc cấp của mình bằng tên riêng và ngược lại kẻ dưới luôn xưng hô cấp trên bằng "Thưa (hay trình)..." cùng cấp bậc của họ, tình huynh đệ chi binh giữa họ hết sức mạnh mẽ ngay cả trong các đơn vị chiến đấu nhỏ nhất. Và mặc dù cấp bậc và chức vụ phần nào phân chia sĩ quan với thuộc cấp nhưng gian khổ và khó khăn là điều phổ quát chung.

Quân đội Hoa Kỳ, nhất là TQLC đặc biệt nhấn mạnh công việc đào tạo những người có khả năng kế thừa mỗi khi cấp trên bị tử trận hay bất khiển dụng. Đây là một điều gần như là độc đáo trong nền văn hóa của Hoa Kỳ, có thể là một phần của tư tưởng “anh hùng cá nhân” và bản chất thứ hai nữa là nó đã cho các đơn vị này có thể tiếp tục chiến đấu một cách hiệu quả ngay mặc dù cấp chỉ huy chính thức đã ra đi.

Sự phân cấp trong TQLC Việt Nam ít phức tạp hơn quân đội Hoa Kỳ, có vẻ Việt Nam hơn hoặc giống hệ thống Âu Châu trên thực tế. Khi đối diện với cấp trên, điều lịch sự và kính trọng thông thường là không nhìn thẳng vào mắt của người đối diện. Khái niệm sĩ diện hay giữ thể diện là điều tối ưu không thể coi nhẹ được. Đối với các cấp chỉ huy, điều quan trọng nhất là các mệnh lệnh phải được thi hành và mọi hành động phải được chấp thuận trước khi thi hành. Khoảng cách giữa sĩ quan và lính tráng khá rõ ràng ngay từ cấp Thiếu úy trở lên. Mỗi Trung đội trưởng đều có một bộ phận nhỏ trong bộ chỉ huy tí hon của mình, thường là từ một đến ba người để làm những chuyện vặt vãnh, phục dịch, đưa tin hay chạy việc cho viên Thiếu úy trẻ. Chức vụ càng cao thì nhóm quân nhân được giao trách nhiệm phục dịch sĩ quan càng đông hơn. Trong quân đội Hoa Kỳ thì nhóm người này thường được gọi là “cao bồi.” Đây là một trách nhiệm danh dự chứ không hề là một sự miệt thị khi được làm “cao bồi” cho một sĩ quan nào đó.

Thiếu úy Lê Bá Bình trình diện “Sói Biển” vào tháng 10 năm 1962, một tháng sau khi chương trình “Beverly Hillbillies” được trình chiếu lần đầu trên  truyền hình Mỹ, cùng tháng với  ca khúc “Monster Mash” do ca sĩ Bobby “Boris” Pickett trình bầy được xếp hạng nhất của nhạc Pop Mỹ, cũng đồng thời cũng là tháng mà “Đại Bàng Hoa Kỳ” và “Gấu Mẹ Liên Sô” suýt nữa đã choảng nhau bằng hỏa tiễn nguyên tử tại Cuba. Trong một chiến dịch gọi là “Operation Shufly” được tiến hành từ đầu năm, các trực thăng TQLC Hoa Kỳ nay được chỉ định yểm trợ không vận cho các đơn vị TQLC cũng như quân đội QLVNCH bay ra bay vào mặt trận.

Phương pháp sử dụng các tân sĩ quan trong TQLC Việt Nam hầu hết là huấn luyện tại chỗ. Ngay sau khi trình diện Tiểu đoàn 3, Bình được bổ nhiệm Trung đội trưởng thuộc Đại đội 2. (Khác với TQLC Hoa Kỳ đặt mã chữ cho các Đại đội, phía Việt Nam thì vẫn sử dụng mã số ở cấp Đại đội).

Kể từ lúc Thiếu úy Lê Bá Bình trình diện vào tháng 10/1962 cho đến đầu tháng 11 năm 1963, Tiểu đoàn 3 đã được điều động không biết bao nhiêu lần ra mặt trận quần thảo với các đơn vị Việt Cộng từ vùng Trung nguyên mạn bắc Saigon cho đến mỏm Nam bán đảo Cà Mau.

Đối với những người trong cuộc như các TQLC với những người như Lê Bá Bình đầy kinh nghiệm trận mạc thì các cuộc tiếp cận với kẻ địch mang tầm ý nghĩa rất quan trọng. Nhìn theo cách vô tư, từ xa và có tầm bao quát hơn thì có vẻ những cuộc giao tranh này không có gì quan trọng lắm. Trong thời gian hai năm thử thách này, Thiếu úy Lê Bá Bình đã bị thương ba lần khi dẫn Trung đội xung phong tấn công kẻ thù Cộng sản và đã được ghi công trạng anh dũng. Đó là  những kinh nghiệm sẽ giúp anh và những binh lính anh sẽ chỉ huy trong các cuộc giao tranh sắp tới. So sánh với những thử thách sau này trong cương vị Đại đội trưởng hay Tiểu đoàn trưởng thì sự khởi đầu chậm chạp và tương đối nhẹ nhàng lại là cách tốt nhất để nhập cuộc đối với một sĩ quan trẻ.

Do sự tình cờ của số mệnh mà vào đầu tháng 11 năm 1963 hầu hết các sĩ quan và quân nhân của Tiểu đoàn 3 đang được nghỉ phép trong khi toàn bộ Sài Gòn cũng như bộ Tư lệnh quân đội Việt Nam lao vào các âm mưu dẫn đến cuộc đảo chánh để thay thế  TT Ngô Đình Diệm. Họ đã trình diện lại vài ngày sau khi tướng Dương Văn Minh, được hầu hết người Mỹ biết đến như "Minh cồ", đã nắm quyền lãnh đạo và sau này bị thay thế bởi tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ vào cuối tháng Giêng năm 1964, sau một vài thay đổi chính quyền. Đối với các TQLC Sói Biển, công tác chiến đấu chống Việt Cộng đã trở lại bình thường.

Trong khi còn đang thu thập kinh nghiệm chỉ huy trong cương vị Trung đội trưởng, Bình được chọn và thông báo sẽ được điều đi học khóa Căn Bản TQLC tại Quantico ở Virginia, Hoa Kỳ. Đối với Lê Bá Bình, viễn ảnh được đi du học ở Mỹ và thụ huấn một khoá huấn luyện cao hơn là một thử thách mà anh rất hăm hở chờ đợi.

Có một điều gì đó không cưỡng lại và né tránh được mà mọi người phải chấp nhận là sự hiện diện và ảnh hưởng toàn diện của nền văn hóa Hoa Kỳ. Trong đề tài này thì không mấy ai thích tranh luận. Lập luận khởi đầu là liệu cái sức mạnh này có tính cách cố ý và liệu có phục vụ cho lợi ích của người Mỹ hay không?

Thành phần ghét Mỹ tại Âu Châu và Á Châu, nhất là những người có khuynh hướng thiên tả hay thân Cộng thì luôn luôn lên án Mỹ vì chủ nghĩa đế quốc xâm lược. Thành phần khác không phản đối Mỹ thì đơn giản thích hưởng thụ phim ảnh và nhạc Mỹ mà cả 48 tiểu bang và ngay các tiểu bang Alaska và Hawaii tuôn ra không ngừng.

Có thể nào một người yêu quê hương đất nước của họ, đặc biệt là trong một nước thuộc thế giới thứ ba, vừa có thể giữ lại được những tinh hoa của nền văn hóa mình mà vẫn thấy thích thú trước vẻ đẹp nam tính phổ quát của Burt Lancaster hay Gary Cooper hoặc sức quyến rũ của Esther WilliamsDeborah Kerr hay không?

Có khi nào một người bình thường, dù chỉ là để giải trí, sau một lần được xem Gene Kelly hay nghe Singin' in the Rain, có thể biến thành Cộng sản được hay không? Có mấy ai có thể cưỡng lại nổi các phản ứng nhún nhẩy  tự nhiên của cơ thể khi thưởng thức Temptations hay Four Tops Song? Mặc dù không hiểu tiếng Anh một chút nào, người ta vẫn cảm thấy hạnh phúc và niềm vui khó tả khi được tiếp cận với một nền văn hóa vượt không gian như vậy.

Điều đó đã xảy đến với Lê Bá Bình, một người Việt Nam yêu nước và một sĩ quan trẻ TQLC. Ngay từ lúc còn nhỏ anh đã không hề bị mất gốc hay vọng ngoại. Anh đã hấp thụ ảnh hưởng Tây phương mà không từ bỏ những gì tốt đẹp nhất của Việt Nam và thường ư ử nhái lại những nhạc điệu của Nat king Cole. Anh vẫn thường đi đến các rạp hát nhỏ bé của Sài Gòn, tay nắm một đống tiền để mơ màng đến sự bao la của Miền Viễn Tây hoang dã trong những phim như High Noon hay Veracruz. Đến tuổi mới lớn thì anh chỉ trễ vài tuần lễ sau giới thiếu niên Mỹ khi tiếp xúc với các giai điệu mới của Bill Haley, nhóm tứ ca Danny and the Juniors, cùng tất cả những người sau đó. Cũng nên biết rằng cuộc "xâm lăng của Anh quốc" không chỉ ngừng lại ở Bắc Mỹ sau này. Các ban nhạc the Beatles, the Animals, Herman's Hermits, the Yardbirds, the Rolling Stones cũng đã hạ cánh và chinh phục được Đông Nam Châu Á.

Bình đã trải qua quá trình thay đổi từ một sinh viên đại học thành một sinh viên sĩ quan rồi tân Trung đội trưởng và trở thành một thanh niên đầy tự tin sau khi đã sống sót qua chiến trận triền miên. Cách  huấn lưyện tại chỗ như một tân sĩ quan thật khác xa với phương cách học hỏi lý tưởng về nghệ thuật chỉ huy nhưng lại là sự lựa chọn duy nhất trong điều kiện đất nước vào thời điểm lúc đó. Do đó, cơ hội được du học tại Hoa Kỳ thật là một món quà từ trên rơi xuống. Anh đã tự hiến mình để thu thập phần lớn kinh nghiệm từ khóa học Cơ Bản.

Gánh nặng là phải duy trì sự hiện diện thường trực của quân đội Hoa Kỳ ở một cấp độ nào đó về sức chiến đấu đã khiến cho những người Mỹ chào đời sau Thế Chiến Thứ Hai không có sự lựa chọn nào khác. Cho đến tận thời điểm đó, kể từ khi lập quốc cho đến lúc khởi đầu của Chiến Tranh Lạnh, Hoa Kỳ chỉ động viên cho mục đích chiến tranh, chưa bao giờ phải răn đe ai cả. Với những thay đổi của tình thế, tốn phí của Chiến Tranh Lạnh về nhân lực, tài nguyên và của cải đã vượt quá xa kinh nghiệm đất nước nhưng sự cần thiết phải cảnh giác nhằm đẩy lùi hiểm họa Cộng sản đã đặt cho nước Mỹ vào thế không còn sự lựa chọn nào khác.

Từ sau Thế Chiến Thứ Hai, người Mỹ nghĩ rằng nếu có một cuộc khủng hoảng nào xẩy ra bất cứ chỗ nào trên thế giới thì họ chỉ đơn giản gởi TQLC đến, cùng một lực lượng đặc nhiệm với hàng không mẫu hạm gần đó, hoặc máy bay ném bom chiến lược luẩn quẩn đâu đó trên bầu trời sẵn sàng đợi lệnh Tổng thống để xung kích là đủ.

Thế Chiến Thứ Hai đòi hỏi quá nhiều nơi mức sản xuất và nỗ lực của quốc dân tới mức không một bộ phận nào là không bị chiếu cố. Trong bốn năm trời đó, tất cả dồn vào kinh tế. Vào thời kỳ trước khi giành được chiến thắng, sự lựa chọn của kinh tế quốc gia là "bánh mì hay khẩu súng." Nói chung dân chúng đã chịu đựng và chấp nhận gian khổ cùng nhau. Ngay cả mặc dù có một số thành phần không phải ra trận phục vụ, nhưng những ngày thứ ba không có thịt và sự hạn chế về xăng nhớt cũng là một cách chia sẻ hy sinh vì mục tiêu chiến thắng.

Trong hoàn cảnh hậu chiến với nền kinh tế phát triển mạnh mẽ đã có sự thay đổi quan niệm từ "bánh mì hay khẩu súng" thành "bánh mì khẩu súng." Trong khi tốn phí  về quốc phòng vượt xa mức sản xuất quốc gia còn hơn thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai nhưng sự tăng trưởng kinh tế và tiến bộ khoa học kỹ thuật đã đạt tới mức là những chi tiêu thường xuyên cho Chiến Tranh Lạnh vẫn cho phép người dân được tự do hưởng thụ các lợi ích vật chất mà họ không bị đòi hỏi phải hy sinh cá nhân như vài năm trước đó.

Tầm cỡ tuyệt đối của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ thật khó mà đo lường được. Từ giai đoạn phác thảo hay tuyển mộ từ tứ phương cho đến lúc huấn luyện các cá nhân thành những quân nhân, thủy thủ, phi công hoặc TQLC, rồi nhiều người trong số đó lại còn được huấn luyện thêm về chuyên ngành đặc biệt để bổ nhiệm họ vào các đơn vị mà sau này họ sẽ phải được huấn luyện thêm nữa, cho tới sự trù liệu một uy lực của Hoa Kỳ ở bất cứ nơi nào cần đến thì quả thật chỉ có một quốc gia thực sự giàu có mới kham nổi. Từ lúc khởi đầu cho đến lúc thật sự tác chiến hay phô trương lực lượng còn có vô vàn phí tổn cho việc tích trữ, xây dựng căn cứ và chăm lo cho các nhân viên phục vụ cho nhu cầu quân sự của quốc gia. Các đòi hỏi về nghiên cứu và phát triển lại còn làm tăng thêm chi phí để bảo đảm cho các chiến đấu cơ Mỹ luôn luôn nắm thế thượng phong đối với các đối phương không thể nào có sức chạy theo cách người Mỹ làm. Thật là không đơn giản chút nào nếu muốn phái một phi đội B.52 đủ sức dội bom trúng mục tiêu, hoặc điều một lực lượng đặc nhiệm hàng không mẫu hạm đến một vị trí chiến lược có tầm ảnh hưởng thuận lợi cho lợi ích của Hoa Kỳ. Người Nga cũng đã cố gắng thực hiện điều đó nhưng họ không bao giờ đạt được chữ "" trong khái niệm "bánh mì và khẩu súng."

Một nước nhỏ như VNCH chắc chắn không có đủ nguồn lực hay hạ tầng cơ sở khả dĩ có thể cưu mang và huấn luyện một đội quân đủ sức để thi hành nhiệm vụ sau này được giao phó. Ở giai đoạn phát triển tiên khởi, quyết định phái các tân sĩ quan TQLC đi thụ huấn Trường Căn Bản ở Quantico dường như là một điều tiên tri đúng đắn. Khi một quân nhân tiến dần lên trong hệ thống quân giai và nếu điều kiện cho phép, người sĩ quan này có thể trở lại Quantico để được huấn luyện thêm với tư cách một Đại úy, Thiếu tá hay cao hơn nữa.

Việc cử  Thiếu úy Lê Bá Bình và bốn sĩ quan TQLC khác theo học tại Trường Căn Bản Quantico tại Virginia thật hết sức đúng lúc. Cả năm anh TQLC Việt Nam đều là các chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm. Các sĩ quan cấp úy này đều đã thực hiện hàng chục chuyến bay chiến đấu bằng trực thăng xâm nhập hoặc máy bay cánh thẳng để nhẩy vào mục tiêu trong nội địa trên những chiếc C-47 hay đủ loại các máy bay quân sự khác. Họ đều quá quen với hiểm nguy nên chuyến đi Mỹ là một giai đoạn nghỉ ngơi, học hỏi và đơn giản là chuyến đi chơi đầy vui thú. Ít nhất là chẳng có ai tại Mỹ, trong tâm trí họ, muốn hại họ cả.

Từ phi trường Tân Sơn Nhất ở ngoại ô Sài Gòn, qua căn cứ không quân Clark tại Philippines, đến Guam, rồi Seattle và căn cứ không quân Travis tại California, chuyến đi thật là dài, buồn tẻ và lạnh lẽo. Vì lý do nào đó công tác chuyển vận lại thay đổi và đoạn đường ba ngàn dặm cuối cùng là một chuyến xe lửa dài ba ngày trời. Chuyến đi mất ba ngày từ Fairfield, thành phố bên ngoài căn cứ Travis cho đến Quantico. Cuối cùng thì Bình đã có thể nhìn và gần như là sờ thấy khoảng không gian rộng mở bao la mà anh vẫn mường tượng từ lúc còn nhỏ trong những buổi trưa đi coi xi-nê ngay tại Tân Định cách đó không lâu.

Khóa học Căn Bản bắt đầu vào tháng 7 năm 1964 và được đặt tên là khóa Đại đội H, hay Đại đội "Hotel," có khi gọi đơn giản hơn là "Hotel." - là một lớp học đa ngôn ngữ và đa văn hóa. Trong đám sinh viên sĩ quan người Mỹ mới tốt nghiệp mặt còn non choẹt còn có các sĩ quan cấp úy trẻ người Đại Hàn, Trung Hoa, Indonesia, Venezuela và Tây Ban Nha cũng mới mẻ không kém. Trong cả nhóm chỉ có đám Việt Nam là những người đã từng có kinh nghiệm chiến trường đáng kể.

Trong lúc tầng lớp thiếu niên Hoa Kỳ còn bận rộn với giày Beatles, nhạc, thời trang tóc tai thì Bình và các bạn trong Đai đội H miệt mài trong Trường Căn Bản để cố gắng học hỏi tất cả những điều học được về chiến thuật bộ binh, thực tập kỹ thuật phối hợp các hỏa lực theo kiểu Mỹ, quân phong quân kỷ, và tất cả những gì mà các sĩ quan huấn luyện có thể nghĩ ra được.

Bình và bốn Thiếu úy Việt Nam khác đều từng là sĩ quan tác chiến. Bạn bè người Mỹ rất kinh ngạc trước những câu chuyện của họ và thường đối xử với họ một cách trân trọng hơn. Thấy trước là  không bao lâu nữa sẽ cùng chiến đấu bên nhau thành thử sự quan tâm trên phương diện nghề nghiệp của họ hết sức chân thành.

Đối với các sĩ quan Việt Nam thì cơ hội được chia sẻ ý kiến với các bạn học và giảng viên rất bổ ích và dễ chịu. Cùng với sự lan rộng của chiến trận, việc được học hỏi chính quy các chiến thuật và áp dụng hỏa lực trong lớp học cũng như ngoài trời là những điều mà các TQLC Việt Nam chưa hề có cơ hội được biết đến. Nhóm Việt Nam do đó thường thảo luận với nhau các lợi ích của từng bài học, đi vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất và trao đổi với nhau sẽ làm sao để áp dụng những điều học hỏi được với đồng đội khi họ trở về nước.

Trong lúc Đại đội H đang ngày đêm thụ huấn trong các cánh rừng Quantico thì sự tham gia của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á từng bước tiến lên cường độ cao hơn. Ðúng lúc khóa học vừa hoàn tất xong chương trình tập bắn súng trường thì Quốc Hội Mỹ thông qua Nghị Quyết Vịnh Bắc Bộ. Mặc dù không chính thức khai chiến nhưng trên thực tế, Hoa Kỳ đã nhập vào cuộc chiến.

Khi mùa Hạ bước sang mùa Thu, các sĩ quan TQLC Việt Nam tận hưởng sự thay đổi màu sắc của đất trời. Và mặc dù họ đều đã biết đến cái lạnh buốt giá thấu xương trong rừng núi Việt Nam nhưng những nụ tuyết đầu tiên rơi xuống là một trải nghiệm như thể là ma thuật, gây ra niềm vui giống như tất cả các trẻ em khi lần đầu tiên được tiếp xúc với một hiện tượng như vậy.

Sự huấn luyện tại Trường Căn Bản rất khắt khe nhưng hoàn toàn không căng thẳng bằng chuyện có thể bị đạn thù thật sự trên chiến trường. Mặc dù đầu bếp nhà trường phải mất nhiều tuần lễ mới tìm ra cách nấu cơm đúng nhất, và dù họ dùng loại hạt gạo dài theo kiểu Mỹ nhưng Bình không nề hà thưởng thức thịt bí-tết, hamburgershotdogs. Cuối tuần thường là thời gian dành cho du ngoạn và đi thăm các thắng cảnh lịch sử và văn hóa trong khoảng cách lái xe được từ Quantico.

Bình tốt nghiệp vào tháng 12 và có được một tháng phép trước khi phải về nước. Chẳng có gì vội vàng cả vì Cộng sản vẫn còn đầy ra đấy để tiễu trừ. Bình đã đi thăm những nơi có thể đi được trong những buổi cuối tuần và bây giờ trong chuyến hồi hương dài và thong thả. Mặc dù anh đã không để lại trái tim nơi đó nhưng San Francisco và khu phố Tầu là nơi anh thích nhất. Anh đã được một người bạn trong Trường Căn Bản hướng dẫn đi chơi rất rành rọt vì anh ta vốn sinh trưởng ngay tại vùng Vịnh.

Vào tháng Giêng 1965 Lê Bá Bình trở về Việt Nam và tái nhậm Tiểu đoàn Sói Biển, giờ đây với cấp bậc Trung úy Đại đội trưởng trung đội cũ của anh. Anh phục vụ tại đó một thời gian nữa trước khi một số bạn học người Mỹ của anh từ trong Trường Căn Bản sẽ đổ bộ xuống phía Bắc gần Đà Nẵng cùng với Sư đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ.


 
Nguyên Tác Tiếng Anh
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2014
Loading