Năm 1975 Cộng sản Hà Nội đã tiêu diệt một thể chế đặc sắc của
Miền Nam Việt Nam Tự Do
Tác giả: Uwe Siemon-Netto
Người dịch: Duy Anh
GS Uwe Siemon-Netto
Tiểu Sử
Uwe's Blog
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến tự vệ (Hình trích từ vietwn.com)
Mùa xuân năm nay, người Việt (trong nước) kỷ niệm lần thứ 35 ngày thống nhất đất nước. Vào tháng 10, đến lượt người Đức sẽ ăn mừng 20 năm ngày đoàn kết quốc gia. Tuy vậy, hai biến cố này không thể so sánh với nhau được, ngoài chuyện là một sự chia cắt tùy tiện đã chấm dứt. Sự khác biệt rất lớn và có thể được mô tả như sau:
• Tại Việt Nam, sự thống nhất đến sau một cuộc chiến khốc liệt khởi xướng năm 1960 bởi Cộng Sản Miền Bắc chống lại chế độ thân Tây Phương tại Miền Nam. Tác giả William Lloyd Stearman, nguyên trưởng ban An Ninh Quốc Gia về Đông Dương từ 1973-1976 đã viết trong một bài báo trên tờ Military Review: “Chiến thắng của Hà Nội là kết quả của sự áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên một thể chế đặc sắc miền Nam Việt Nam Tự Do.” Từ hai đến ba triệu người đã thiệt mạng. Nhiều người Mỹ tin vào luận điệu cộng sản cho rằng đó là một cuộc chiến “Giải Phóng Quốc Gia.” Thực chất, đó chính là cao điểm âm mưu 50 năm của Cộng Sản Quốc Tế nhằm đặt chân lên Đông Nam Á.
• Nước Đức có một kết quả khác hẳn. Tại đây, một cuộc cách mạng ôn hòa trong nội bộ Cộng Sản Đông Đức đã đưa đến một cuộc thống nhất không đổ máu với nước Tây Đức dân chủ. Ngày nay toàn nước Đức, không riêng gì Tây Đức, đã trở thành một quốc gia tự do, giàu mạnh với một xã hội tốt đẹp sau cuộc chiến tranh lạnh 40 năm tiến hành bởi chính cái cường quốc đã gởi tay sai Cộng Sản Việt Nam đi chém giết và hi sinh vì những lý do ý thức hệ. Những tay sai của Moscow đã thành công năm 1975 tại Việt Nam. Nhưng tại Đức, họ đã thất bại 15 năm sau.
• Tại Việt Nam, Cộng Sản đã lộ ra là những kẻ thắng cuộc đầy lòng hận thù. Họ đã tập trung hàng trăm ngàn sĩ quan và nhân viên chế độ cũ vào trong trại cải tạo, bỏ đói họ và trong nhiều trường hợp, đã tra tấn họ. Mặc dù phát ngôn viên của nhà cầm quyền Hà Nội đã trân tráo phủ nhận trong điện thư gởi cho báo The Beat (xem bài chủ), đã có quá nhiều bằng chứng chỉ rõ những sự đánh đập tù cải tạo là có thực. Công trình nghiên cứu khoa học của một chuyên gia tại Đại Học Harvard đã chứng minh điều đó.
• Tại Đức, quân đội Nhân Dân Quốc Gia Đông Đức, một quân lực hùng hậu hàng thứ hai thuộc khối Hiệp Ước Warsaw đã bị giải tán qua đêm mà không đổ một giọt máu. Nước Đức thống nhất đã không truy tố các sĩ quan Đông Đức mặc dù trước đó họ luôn sẵn sàng xâm chiếm Tây Đức theo lệnh của Moscow. Các cấp tướng tá cao cấp trong đảng Cộng Sản Đông Đức đều được giải ngũ cho về với gia đình. Đó là tất cả những gì gọi là khốn khổ nhất đối với họ.
• Những người sống tại Miền Nam Việt Nam đã bỏ xứ ra đi bất kể nguy nan có thể xảy ra với tính mạng họ; hàng trăm ngàn người đã chết đuối khi những chiếc thuyền nan bị đắm trong biển cả. Người Việt tỵ nạn đã phân tán ra trên hơn 60 quốc gia, trong đó tại nước Đức, một người gốc Việt Nam 37 tuổi đã vươn lên được một chức vụ cao trong chính quyền Đức, làm đến bộ trưởng y tế Liên Bang Đức.
• Đúng là có hàng trăm ngàn người Đông Đức phải bỏ nhà ra đi, nhưng họ không hề bị nguy hiểm đến tính mạng, cũng như không hề phải bỏ xứ ra đi. Họ đã làm những gì mà họ vẫn hằng mơ ước - được di chuyển tự do trong đất nước và định cư nơi nào có công ăn việc làm. Nói cách khác, họ chỉ thực hiện quyền tự do mà hiến pháp đã qui định, điều mà chủ nghĩa cộng sản đã ngăn cấm họ trong 40 năm qua.
Những người yêu tự do Đông Đức đã thừa hưởng kết quả từ lòng quả cảm của họ, từ sự hỗ trợ sắt đá của các nguyên thủ quốc gia trên toàn thế giới, đặc biệt là TT Ronald Reagan và TT George H.W. Bush, và từ các Giáo Hội đã cung cấp cho họ nơi tạm trú lúc di chuyển. Các Giáo Hội cũng đã đưa lời khuyên thích đáng nhất: không bạo động! Bản thuyết giáo các mục sư truyền bá ngày 9 tháng 10 năm 1989 trước gần một trăm ngàn người biểu tình trong “Ngày Thứ Hai Biểu Dương vì Hoà Bình” đã mang một ý nghĩa đặc biệt. Bản văn được trích từ cuốn Book of Proverbs chương 25, dòng 15: “Với lòng kiên nhẫn, kẻ cai trị sẽ được thuyết phục, và một cái lưỡi mềm bẻ gãy một khúc xương.”
Người Đức hân hoan kỷ niệm 20 ngày đất nước thống nhất mà không có tù cải tạo, người vượt biên, kinh tế mới, mất đất, mất biển, cấm tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tôn giáo, tự do bầu cử... Nguồn: DCVOnline tổng hợp
Đối nghịch lại, Cộng Sản Bắc Việt đã lợi dụng một “hậu phương” nước Mỹ rời rạc, trong đó hẳn nhiên cũng có những người yêu chuộng hòa bình chân chính, nhưng đối với sự quan sát của bản thân người viết này, phần đông gồm những thành phần hoang tưởng, kém hiểu biết, nghiện nghập và ích kỷ. Họ nhẫn tâm phất cao lá cờ Việt Cộng của kẻ thù, miệng hô to: “Ho, Ho. Ho Chi Minh.” “Hãy làm tình, không chiến tranh!” là khẩu hiệu của phong trào hoà bình vào thập niên 60. Thái độ tàn nhẫn và vô cảm của người dân Mỹ khi đón tiếp các cựu chiến binh Việt Nam trở về là một trong những khiá cạnh kém hấp dẫn nhất của nước Mỹ, một đất nước tôi yêu mến và ngưỡng mộ nhưng thỉnh thoảng vẫn lộ ra những sự yếu kém rất đáng buồn.
Thiết tưởng cũng nên nhắc lại điều mà tôi vẫn thường viết, và cũng như tác giả William Lloyd Stearman đã trình bày trong bài viết trên tờ Military Review: Sự sai lạc của thông tin báo chí lớn đã giúp tạo ra một thành kiến trong người dân và chuyển thắng thành bại. Tôi đã thấy hàng ngàn người dân bị sát hại trong những hố chôn tập thể, trên đường phố Huế, nạn nhân của đồ tể cộng sản. Tôi cũng đã chứng kiến thân xác bị hành hình của một xã trưởng miền Nam Việt Nam, cùng với thân nhân của họ, bị quân khủng bố Việt Cộng treo cổ trên cây sau một cuộc tấn công. Trong những buổi họp báo hàng ngày tại Sài Gòn, những sự việc này chỉ được mô tả như những con số thống kê vô nghĩa. Những cuộc tàn sát này không đơn thuần là những “tai nạn xung đột vũ trang,” mà là một phần không thể tách rời của Giai đoạn 2 trong Chiến Lược Chiến Tranh Du Kích, gọi là giai đoạn Khủng Bố.
Tác giả Stearman rất đúng khi nhận định Cộng Hòa (Nam) Việt Nam, một đất nước bị phản bội và chịu diệt vong đã từng là là một quốc gia tự do đáng được chú ý. Tự do tới mức phải hứng chịu thị phi cho đến lúc bị tiêu diệt. Đất nước này đã dân chủ đến nỗi năm 1967, vào lúc cao điểm nhất cho sự sống còn, vẫn tổ chức được bầu cử tự do. Trong khi đó, những thể chế dân chủ khác dù lâu đời hơn chắc đã phải hoãn những cuộc bầu cử như vậy trong hoàn cảnh tương tự. Tờ New York Times đã ghi nhận một tỉ lệ đi bầu đáng kinh ngạc là 83% mặc dù người đi bầu bị hăm dọa sẽ bị Việt Cộng sát hại. 83% là con số có thể làm chính bản thân nước Mỹ phải mắc cở.
Xe tăng T-54 (made in Soviet) mang số 844 và AK-47 (made in China) cùng với cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam ủi sập cửa dinh Độc Lập. Vài tháng sau đó, MTGPMN bị giải tán, Hà Nội đổi tên đảng Lao Động thành đảng Cộng Sản, và điều bốn Hiến Pháp ra đời. Chấm dứt một quả lừa lịch sử lần thứ hai trên đất nước Việt Nam. Nguồn: Onthenet
Quốc gia tự do đáng kinh ngạc này ngày nay đã bị thay thế bởi một chế độ mà tổ chức Quan Sát về Nhân Quyền (Human Rights Watch) xếp hạng là một trong những thể chế phạm tội tồi tệ nhất. Tuỳ viên báo chí của chế độ này tại Washington đã trơ trẽn trả lời báo The Beat trong một điện thư: “Sau cuộc thống nhất vào năm 1975, chính sách nhất quán của Việt Nam nhắm vào hòa hợp hòa giải quốc gia nhằm xây dựng một đất nước đoàn kết và hùng cường. Những thành tựu đáng kể về đối nội cũng như đối ngoại đã ghi nhận rõ ràng sự thành công của chính sách này.”
Có rất nhiều cách để xây dựng một “đất nước đoàn kết và hùng cường,” như nước Đức đã tìm ra cho chính họ và tránh thế giới phải bận tâm vào. Dưới chế độ độc tài, sự kiện người dân Việt Nam cần cù và khéo léo vẫn tạo được những thành tựu chắc chắn không phải do công lao của đảng Cộng Sản. Tại những thành phố như Westminster và Garden Grove tại California, một số người lớn tuổi vẫn còn phải chịu đựng những sự đau đớn, hậu quả của việc đối đãi tàn nhẫn của cộng sản Việt Nam sau “chiến thắng” 1975. Bình an và hòa hợp chưa bao giờ đến với họ.
Họ xứng đáng được sự cảm thông, sự biết ơn và lòng ngưỡng mộ của những người bạn Mỹ láng giềng - ngưỡng mộ vì họ đã không hề than van và biết ơn vì những sự đóng góp của họ cho đất nước Hoa Kỳ này trong 35 năm qua.
Điều này dẫn chúng ta đến một ý nghĩ cuối cùng: Với tinh thần ý thức cao về lịch sử, người Việt Nam chắc hẳn đã hiểu rõ một chân lý của lịch sử là: “mọi điều không bao giờ dừng lại ở hiện tại mà luôn luôn mở rộng ra cho tương lai.”
© DCVOnline
Nguyên tác:
Hanoi’s Victory in 1975 Wiped Out A “Remarkably Free South Vietnam”
By UWE SIEMON-NETTO
This spring, the Vietnamese commemorate the 35th Anniversary of their country’s reunification. In October, the Germans will celebrate 20 years of national unity. These two events are not comparable beyond the fact that arbitrary divisions ended. Indeed, their difference is colossal.
● In Vietnam, unity came after a brutal war launched by the Communist North in 1960 against the pro-western South. “Hanoi’s victory resulted in the imposition of Communism on what had been a remarkably free South Vietnam,” wrote William Lloyd Stearman, the former head of the National Security Council’s Indochina Staff from 1973-1976, in a recent article in The Military Review. Between 2 and 3 million people died. Many Americans believe the Communist claim that this was a “War of National Liberation.” In truth, it was the apex of a 50-year scheme by the Communist International to gain a major foothold in Southeast Asia.
● Germany had a reverse outcome. There, a peaceful revolution in the Communist-ruled East led to the bloodless reunification with the democratic West. All of Germany, not just the West, was now a free, prosperous and very decent society after a 40-year cold war conducted by the very same world power that had sent their Vietnamese proxies out to kill and get killed for is ideological causes. In Vietnam, Moscow’s proxies succeeded in 1975; but in Germany the Soviet surrogates were defeated 15 years later.
● In Vietnam, the Communists proved to be vengeful victors. They hauled hundreds of thousands of South Vietnamese officers and civil servants off to reeducation camps, starving and in many cases torturing them, never mind the absurd denial of this fact by a Hanoi government spokesman in an email to the Beat (see our lead story); there exists overwhelming evidence that these brutalities have happened. A significant scientific study led by a Harvard scientist testifies to the veracity of this claim.
● In Germany, the East’s National People’s Army, the second most powerful military force in the Warzaw Pact, was bloodlessly dissolved overnight. The united Germany did not persecute East German officers who had been fully prepared to invade the West whenever the order came from Moscow. Their colonels and generals, all high-ranking Communist cadre, were retired and sent home. That was the only “hardship” inflicted upon them.
● South Vietnamese fled their defeated homeland under great risk to their lives; hundreds of thousands drowned when their rickety ships capsized and sank. Vietnamese refugees were dispersed over more than 60 countries, including Germany where a 37-year-old native of South Vietnam just attained a top cabinet position -- minister of health.
● True, East Germans also left home by the hundreds of thousands, but without having to risk their lives, and without even going abroad. They did what they had always wanted to do - travel freely within their own land and settle where they could find a good job. In other words, they were just exercising their constitutional right, which Communism had prevented them from doing for 40 years.
East German freedom lovers benefited from their own courage, from the iron support of world leaders, especially Ronald Reagan and George H.W. Bush, and from churches that provided a roof for their movement. The churches also gave them sound counsel: no violence! The sermon text on which pastors preached on 9 October 1989 before sending nearly 100,000 demonstrators out for their most significant “Monday Peace March” was seminal. The text was taken from the Book of Proverbs 25:15 and read, “With patience a ruler will be persuaded, and a soft tongue will break a bone.”
By contrast, the North Vietnamese Communists profited from an weak American home front, which doubtless included well-meaning pacifist, but to this observer seemed largely hysterical, misinformed, drug-crazed and self-serving. “Ho, Ho, Ho Chi Minh,” their numbers chanted waving the enemy’s flag - the banner of the Vietcong. “Make love, not war!” was the slogan of the 1960s peace movement. The heartless and cruel reception of returning Vietnam Veterans by so many of their countrymen was one of my most unattractive impressions of the United States, a nation that I otherwise love and admire but that sometimes seems woefully wrongheaded.
It is futile to repeat at this place what I have written many times before, and what William Lloyd Stearman is in effect saying in his Military Review article: Major media malpractice has helped create a public mindset that turned its own nation’s military victory into a resounding defeat. I have seen the thousands of murdered civilians in mass graves and in the streets of Hue, victims of Communist butchery. I have seen the mutilated corpses of South Vietnamese village leaders and their families hanging from trees after Vietcong terrorist attacks that in the daily press briefings in Saigon featured only as statistics. These carnages were not mere “accidents of armed conflict” but constituted an integral part of Phase II of stated guerilla warfare strategies; that part is called terror.
Stearman is right. The betrayed and obliterated Republic of (South) Vietnam was a remarkably free country. It was so free that it allowed itself to be badmouthed to death. It was so democratic that in 1967, at the height of its war for survival, it held free elections; other, more established democracies, might well have suspended the ballot under those circumstances. The New York Times noted an astounding voter turnout of 83 percent, even as the Vietcong threatened to kill people going to polling stations. Eighty-three percent! That puts America to shame.
This “remarkably free state” was replaced a by regime that Human Rights Watch ranks as one of the world’s worst offenders (<https://www.uwe-thebeat.org/frame/torture.pdf>). And this regime’s press attaché in Washington has the cheek to tell The Beat in an email: “After the reunification in 1975, the state of Vietnam’s consistent policy is to achieve national harmony and reconciliation so as to build a unified and strong country. The remarkable domestic and international achievements Vietnam has recorded so far vividly demonstrate the success of that policy.”
There are ways and ways to build “a unified and strong country,” as Germans found out to their own and the world’s cost. That even under tyranny the ingenuity and industry of the Vietnamese people should produce astonishing results is surely not to the Communists’ credit. Westminster and Garden Grove, California, are filled with elderly people still suffering from the aftereffects of the torment they were put through after the Communist victory in 1975. Peace and harmony have reached them not.
They deserve the compassion, gratitude and admiration of their American-born neighbors - admiration for their refusal to whine and gratitude for what they had accomplished in the last 35 years on U.S. soil.
Which leaves us with one final thought: As people with a pronounced sense of history, the Vietnamese surely know one unshakable verity about history: It does not end with the present but always remains open to the future.
Uwe Siemon-Netto
Summer 2010
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2010