LƯƠNG CHÂU TỪ
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm t́ bà mă thượng thôi
Tuư ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi
Ngày xưa học luyện thi tú tài 2 Ban C (Văn Chương) có lần tôi bị ông thầy bắt làm luận văn về bài thơ tứ tuyệt Đường Thi "Lương Châu Từ," tôi giải thích câu hai "Dục ẩm tỳ bà mă thượng thôi" một cách cắc cớ như sau:
- Dục ám chỉ t́nh dục (sex)
- Ẩm là uống (rượu)
- Tỳ bà là đàn hát
- Mă thượng là lên ngựa, nghĩa bóng là "làm t́nh"
Như vậy cả câu nói lên tâm trạng người lính khi về phép là t́m chỗ vui chơi hoan lạc cho bơ những ngày cực khổ ngoài chiến trường v́ "chiến binh mấy người trở lại." Nó cũng giống như câu ví von về gói thuốc PALL MALL: "Phiền Anh Lên Lầu, Mong Anh Làm Lẹ."
Ông thầy tuy không bằng ḷng nhưng cũng phải công nhận tôi không sai lắm v́ thông thường, những tác phẩm nổi tiếng trong văn học cũng như trong hội họa thường được người sau t́m ra thêm những nét đặc sắc mà chính tác giả cũng chưa chắc đă có ư đó.
"Lương Châu Từ" có nghĩa là Khúc Hát Châu Lương, một địa danh thuộc vùng biên giới Tây Bắc nước Tàu tiếp giáp với Mông Cổ phía bắc, đông bắc và Kazakhstan, Kyrgyzstan (Liên Sô cũ) phía tây bắc.
Lương Châu tức Longyou
Trích từ: https://en.wikipedia.org/wiki/File:China,_742.svg
Nhiều tài liệu khác th́ cho là Lương Châu thuộc tỉnh Cam Túc (Gansu) ngày nay của Trung Hoa. Điều nay không sai nhưng có lẽ có phần thiếu sót vùng Tân Cương.
Trích từ: https://img368.imageshack.us/img368/6228/trungquocua1.png
Lương Châu Từ do Vương Hàn (687-726) làm ra năm 713 khi ông bị triều đ́nh nhà Đường đày ra Lương Châu do tính bộc trực của ḿnh. Lương Châu là vùng biên giới gồm phần lớn là đất sa mạc Tân Cương (Gobi desert) và là nơi rợ Hồ từ mạn Bắc và Tây Bắc xua quân xuống quấy nhiễu liên tục. Lương Châu Từ đồng thời cũng lấy tên từ một điệu hát cổ Trung Hoa nói về trận mạc, biên giới.
Thông cảm với sự gian khổ của lính tráng thuộc cấp của ḿnh, Vương Hàn viết ra bài thơ tứ tuyệt này, không ngờ đă để lại cho hậu thế một áng văn chương truyệt vời, nhất là đối với người Việt. Giá trị của bài thơ này vượt thời gian và rất phù hợp với người chiến binh VNCH trong trận chiến huynh đệ tương tàn. Nhà thơ Hữu Loan viết trong "Đồi Tím Hoa Sim":
Lấy chồng chiến binh, mấy người đi trở lại
Nhạc sĩ Lê Thương diễn tả trong "Ḥn Vọng Phu":
Qua Thiên San ḱa ai tiễn rượu vừa tàn
Vui ca vang rồi đi tiến binh ngoài ngàn
..........................
Vui ra đi rồi không ước hẹn ngày về
Ai quên ghi vào gan đă bao nguyện thề
Những từ ngữ như "bỏ mạng nơi sa trường," "chén rượu ly bôi" v.v... phảng phất ảnh hưởng của bài thơ tứ tuyệt này.
Trong văn chương Việt Nam, chữ sa trường đă trở thành đồng nghĩa với chiến trường, tự điển Tuttle Compact Vietnamese Dictionary dịch chữ sa trường là battlefield (nguồn).
Thành thử có câu: "Quân trường đổ mồ hôi, chiến trường (hoặc sa trường) bớt đổ máu."
Tôi rất đồng ư với nhận xét của ông thầy cũ v́ quả thật chữ Hoa tượng h́nh, tượng nghĩa, nhất là thể thơ Đường thất ngôn tứ tuyệt luôn diễn tả những ư nghĩa cô đọng có tính cách phổ quát, rộng lớn, không bó buộc vào sự việc cá nhân, nhỏ nhặt nên càng phân tích, càng thấy ra nhiều điều mới lạ và dễ đi vào tranh căi v́ mỗi người có một cách cảm nhận khác nhau.
Theo thiển ư, thưởng thức một bài thơ tứ tuyệt tương tự như ngắm một bức tranh nổi tiếng, chẳng hạn như bức "La Joconde" của Leonard de Vinci. Chỉ có thể cảm nhận mà khó phân tích được.
Bài "Lương Châu Từ" đă cho tôi cái cảm xúc của bức tranh "Le dernier carré de la Vieille Garde," bi thảm và hùng tráng.
Le Dernier Carré
Litho d'après le tableau de R.Hillingford "The Last Stand of The Imperial Guard."
(Trích nguồn)
Đây đồng thời cũng là cảm xúc của tôi trong ngày 30 tháng tư đen, và của tất cả những người lính VNCH, đặc biệt là các chiến binh Sư Đoàn 18 BB, của các chiến sĩ không quân sáng ngày cuối c̣n bắn hạ được mấy chiến T.54 tại ngă tư Bẩy Hiền, hay của toán Lực Lượng Đặc Biệt lặng lẽ bỏ khi giới trước cổng trại Tổng Tham Mưu sau khi nghe Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Tôi được hân hạnh cùng tù cải tạo với một anh không quân và vài anh sĩ quan SĐ 18 BB trong nhóm đó.
Một tay quản giáo mặc đỏ lừ đă hỏi chúng tôi trong một buổi "lên lớp":
- Anh nào thuộc SĐ 18 đúng lên!
Khoảng 5 người đứng dậy. Tay quản giáo này đă từng bị chận đánh tại Long Khánh nói mỉa:
- SĐ 18 các anh anh dũng lắm đấy nhé.
5 người này sau đó được "biên chế" vào nhóm thanh lọc "ác ôn" và được chuyển trại hai tháng sau.
Ngoài ra, trong một buổi đi làm lao công quét dọn cầu tiêu của bọn cán bộ, tôi nghe hai "đồng chí" căi nhau, một tay mắng tay kia:
"Cả bẩy thằng trong một cái hầm, có mỗi một thằng ngụy dù đi qua, đ. có thằng nào dám bắn, để nó phát hiện dôi một trái đạn vào chết hết năm mà mày làm tàng cái ǵ..."
Trở lại chủ đề chính, bài dịch "Lương Châu Từ: được chấp nhận nhiều nhất là do Trần Trọng San dịch thành:
Rượu bồ - đào,
chén dạ quang
Muốn say, đàn đă rền vang giục rồi
Sa trường say ngủ ai cười
Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu
Bùi Khánh Đản có bài dịch khá hay:
Bồ đào, rượu rót chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi
Băi cát say nằm, chê cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về .
Bài thơ này có hai chỗ gây tranh căi nhiều nhất là về:
1/ Cây đàn tỳ bà. Nhiều người cho rằng đàn tỳ bà làm sao thúc quân nổi? Cách lư giải của Lai Quang Nam khá hay là thời thế kỷ thứ 8, Hồ cầm (đàn của người Hồ) được dùng ngoài chiến trận sa mạc để làm hiệu lệnh nhờ gọn và âm sắc cao hơn tiếng gió vùng sa mạc. Hồ cầm du nhập vào Trung Hoa thành cây đàn tỳ bà, cũng như thành cây Balalaika vùng biên giới Liên Sô cũ. Người Hồ (Mông Cổ) nổi tiếng về tài cưỡi ngựa và chiến đấu bằng ngựa nên sử dụng hồ cầm vừa nhẹ vừa tiện để dùng trong trận mạc là phải. Quân đội Trung Hoa đóng ngoài biên cương Lương Châu cũng sử dụng hồ cầm để tập họp quân lính là điều dễ hiểu.
2/ Say rượu nằm lăn ngoài chiến trường th́ c̣n ǵ sức chiến đấu? Theo tôi, phải hiểu chiến trường không có nghĩa là lúc nào cũng đối đầu với quân thù mà là nói chung ngoài mặt trận, có đồn lính, có canh gác, tuần tiễu và thỉnh thoảng mới có đụng độ. Những lúc rảnh rang, uống rượu say mèm trong đồn th́ là lẽ thường t́nh. Thời xưa hay nay ǵ cũng vậy.
Tôi có thêm một nhận xét nhỏ về chữ "quân" trong câu ba. Chữ này dùng ở ngôi thứ ba ám chỉ "người ta." Tuy nhiên tác giả dùng chữ "quân" thay v́ "nhân" chắc có ư nói chung chung "vua, thượng cấp, thuộc cấp, các chiến hữu..." xin đừng cười trách v́: Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
Để chấm dứt, tôi xin được giới thiệu bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp của:
Pierre Stephen Robert Payne (1911-1983), một nhà văn, nhà sử học, nhà thơ và viết tiểu sử người Anh:
The Song of
Diangchow
The beautiful grape wine, the night-glittering cups
Drinking or not drinking, the horns summon you to mount.
Do not laugh if I am drunk on the sandy battlefield
From ancient times, how many warriors ever returned !
và Paul Demieville (1894-1979), người Thụy Sĩ được công nhận là một trong những nhà nghiên cứu về Trung Hoa sâu sắc nhất.
Chanson de
Leangtcheou
Le beau vin de raisin dans la coupe phosphorescente
J’allais boire, mais le cistre des cavaliers me presse
Si je tombe, ivre, sur le sable, ne me riez pas
Combien, depuis les temps anciens, sont revenus de la guerre !
QYHD/NK Lư Văn Quư
Orange
County, California ngày 19/07/2010
Tham khảo:
Bạch Mai Bút Chí. Lương Châu Từ-khúc bi ca thời chiến. Truy cập ngày 19/07/2010 từ:
https://bachmaibutchi.wordpress.com/2007/10/27/l%C6%B0%C6%A1ng-chau-t%E1%BB%AB-khuc-bi-ca-th%E1%BB%9Di-chi%E1%BA%BFn/
Diễn đàn Trung Học Lê Văn Duyệt. Lương Châu Từ. Truy cập ngày 19/07/2010 từ:
https://www.levanduyet.net/cgi-bin/yabbSP1/YaBB.pl?num=1233954326
Ḍng Thơ Đường Biên Tái. Laiquangnam. Vương Hà Lương Châu Tử. Truy cập ngày 19/07/2010 từ:
https://newvietart.com/index1.1993.html
Jestor. Trusted archives for scholarship. Obituaries. Truy cập n ày 19/07/2010 từ:
https://www.jstor.org/pss/602523
Larousse.fr. Waterloo: Le Dernier Carré. Truy cập ngày 19/07/2010 từ:
https://www.google.com/imgres?imgurl=https://www.larousse.fr/ressources/contrib/data/media/11022129.jpg&imgrefurl=https://www.larousse.fr/encyclopedie/article/Waterloo__le_Dernier_Carr%25C3%25A9/11022138&usg=__1GUTvBGLil4_d_OLsICZXYEIyPE=&h=384&w=338&sz=62&hl=en&start=11&um=1&itbs=1&tbnid=gKiFOQ1htje_xM:&tbnh=123&tbnw=108&prev=/images%3Fq%3Dle%2Bdernier%2Bcarr%25C3%25A9%2Bde%2Bla%2Bvieille%2Bgarde%2B%25C3%25A0%2Bwaterloo%26um%3D1%26hl%3Den%26sa%3DG%26rlz%3D1R2ADFA_enUS387%26tbs%3Disch:1
Tuttle Compact Vietnamese Dictionary by Phan Văn Giưỡng. Sa Trường. Truy cập ngày 19/07/2010 từ:
https://books.google.com/books?id=D62xGaZpmygC&pg=PA299&lpg=PA299&dq=%22sa+tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%22&source=bl&ots=9ZKM8diDra&sig=TAIFvacXoNY4KJpFmHZ2FjZX5gA&hl=en&ei=C-9ETPr3A8L38Aa7zIWTBw&sa=X&oi=book_result&ct=result&resnum=6&ved=0CC4Q6AEwBTge#v=onepage&q=%22sa%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%22&f=false
Lương Châu Từ. Nguyễn Hoài Vân. Truy cập ngày 19/07/2010 từ:
https://pagesperso-orange.fr/nguyen.hoai.van/LuongChauTu.htm
Wikipedia. File: China, 742.svg. Truy cập ngày 19/07/2010 từ:
https://en.wikipedia.org/wiki/File:China,_742.svg
Wikipedia. Pierre Stephen Robert Payne. Truy cập ngày 19/07/2010 từ:
https://en.wikipedia.org/wiki/Pierre_Stephen_Robert_Payne