Bệnh ‘Xương xốp’ (Osteoporosis trong Anh ngữ) được bàn khá dài và khá nhiều trên sách báo, radio, TV, Internet, v.v… Bàn dài và bàn nhiều quá có thể làm người đọc khó nhận thấy trọng tâm và trọng điểm (focus). V́ vậy, độc giả dễ bị phân tâm; đó chính là “đa thư loạn tâm”, như người xưa thường bảo.
Để người đọc dễ dàng nắm chắc vấn đề, bài viết này chỉ bàn ngắn gọn và tập trung
vào những điếm cơ bản nhất như xác định thuật ngữ, chẩn-trị và pḥng ngừa Bệnh
‘Xương xốp’. Một số thuật ngữ, Anh ngữ và chữ tắt sẽ được ghi chú trong dấu
ngoặc đơn. Mục tiêu của bài viết là chỉ nhầm cung cấp thông tin chung; các
trường hợp cá biệt cần được tư vấn và chẩn-trị bới các nhân viên ư tế hữu trách.
Bệnh ‘Xương xốp’ (Osteoporosis) là ǵ?
Tên bệnh trong Việt ngữ chưa đồng nhất; có người thích gọi ngược là Bệnh “Xốp
xương” thay v́ “Xương xốp”. Trong Anh ngữ, ngoài cái tên “định mệnh”
osteoporosis gồm rơ ràng bốn chữ ‘o’ tṛn như ‘bốn không’, bệnh Xương xốp c̣n có
thêm tên “Xương lắm lỗ”
(‘bones with holes’).
Tên gọi tuy khác, nhưng tựu trung đây là một t́nh trạng bệnh lư trong đó có tác
động tăng hủy và giảm sinh
của các tế bào xương. Chính sự tăng hủy
và giảm sinh đă làm cho xương mang nhiều lỗ hổng hơn b́nh thường.
(Xem h́nh 1 – osteoporosis1.jpg).
Bệnh ‘Xương xốp’ thường xảy ra nhiều hơn ở phụ nữ sau khi “biệt kinh kỳ”, chứng này c̣n được gọi là ‘bệnh thầm lặng’ (‘silent disease’) v́ đă từng âm thầm gây nhiều hậu quả bệnh lư, biến chứng và tử vong.
Triệu chứng chủ quan của xương xốp gồm những ǵ?
Người bệnh có thể chỉ cảm thấy một số triệu chứng (chủ quan) như thỉnh thoảng
đau lưng, nhức xương. Những triệu chứng này thường không đủ gây quan tâm cho
người bệnh để t́m thầy chạy thuốc.
Bệnh ‘Xương xốp’ được xem là ‘bệnh âm thầm’ v́ thường không gây triệu chứng báo động rơ rệt cho đến khi người bệnh gẫy xương hoặc có những dấu hiệu khách quan khác.
Và cũng v́ vậy, để giúp xử lư bệnh t́nh, người bệnh cần cung cấp cho thầy thuốc một số thông tin liên hệ đến bản thân và gia đ́nh. Bệnh nhân
· đă từng bị gẫy xương — khi chỉ va chạm nhẹ vào vật ǵ đó, hoặc ngay cả khi ho?
· có những nguy cơ dẫn đến chứng xương xốp, như dậy th́ muộn, tắt kinh sớm, bệnh gan, bệnh thận, bệnh tiểu đường, nghiện rượu, hút thuốc lá?
· có cha mẹ hay ông bà bị chứng xương xốp hoặc gẫy xương do chứng xương xốp?
Khi thăm khám thầy thuốc có thể phát hiện một số Dấu hiệu khách quan.
Các dấu này có thể gồm giảm chiều cao, lưng bị ‘gù’, và xương bị gẫy v́ một tai
nạn nhỏ.
Bất cứ xương nào trên cơ thể cũng có thể trở nên dễ bị gẫy. Nhưng thường dễ bị gẫy là xương hông (Xem h́nh 2 – osteoporosis2.jpg),
xương cột
sống
(Xem h́nh 3 – osteoporosis3.jpg)
hoặc xương cổ tay, xương cánh tay, xương sườn, và xương chậu.
Những chỗ gẫy ở cột sống thường được gọi là xương bị “nghiền” (crush fractures) hay xương bị “kẹp” (wedge fractures). Như trong h́nh 3 – osteoporosis3.jpg trên đây.
Một số Xét nghiệm có thể được thực hiện khi có và nghi Bệnh ‘Xương xốp’
Các xét nghiệm này sẽ giúp truy t́m nguyên nhân, xác định, hay phân biệt chẩn
đoán. Chúng gồm:
· xét nghiệm sinh hoá như thử máu, nước tiểu;
· sinh thiết xương;
· chụp h́nh X-quang vùng xương;
· đo độ cứng của xương, qua việc đo độ đặc khoáng chất của xương (Bone Mineral Density -’BMD’) bằng cách chụp DEXA / DXA (Dual Energy X-ray Absorptiometry).
DEXA – Chụp DEXA (Dual Energy X-ray Absorptiometry) là phương pháp hữu hiệu nhất hiện nay. DEXA:
· dùng để đo độ đặc của xương sống và xương hông;
· thực hiện khá nhanh, chỉ mất khoảng 15 phút, không gây đau đớn, an toàn v́ chỉ dùng một lượng nhỏ phóng xạ (ít hơn khi chụp quang tuyến để khám răng);
· giúp phát giác có bị xương xốp hay không;
· và nếu xương đă xốp, cho biết mức độ trầm trọng của xốp như thế nào;
· nếu xương chưa xốp, giúp ước đoán nguy cơ mắc chứng xương xốp;
· nếu đang được trị chứng xương xốp, DEXA giúp t́m xem việc chữa trị có công hiệu không – bằng cách so sánh độ đặc của xương trước khi bắt đầu chữa trị và một năm hay hai năm sau khi chữa trị.
(Xem h́nh 4, 5, 6, 7 – osteoporosis4.jpg, osteoporosis5.jpg, osteoporosis6.jpg, osteoporosis7.jpg)
Ư nghĩa của kết quả DEXA là ǵ?
Mỗi lần đo BMD, DEXA cho biết độ đặc của xương ở một vùng nào đó của cơ thể. Kết
quả sẽ nêu ‘độ T’ (‘T-score’) và ‘độ Z’ (‘Z-score’).
‘Độ T’ là độ đặc của một xương nhất định, so với độ đặc xương của một phụ
nữ trẻ và khỏe mạnh.
· Nếu ‘độ T’ là 0, xương được đo có độ đặc tương đương với một người c̣n trẻ, thuộc loại trung b́nh;
· Nếu ‘độ T’ từ –1 trở lên, xương c̣n b́nh thường;
· Nếu ‘độ T’ từ –1 đến –2.5, xương chưa bị xốp nhưng có độ đặc thấp (osteopenia), và cần có biện pháp để tránh cho tế bào xương bị hao ṃn;
· Nếu ‘độ T’ dưới –2.5, xương đă bị xốp cần điều trị.
‘Độ Z’ (‘Z-score) được dùng để so sánh độ đặc của một xương với độ đặc xương của những người ở cùng một lứa tuổi và phái tính.
Khi Chẩn đoán, thầy thuốc sẽ xác định và phân biệt với một số bệnh khác:
Bệnh xương xốp (osteoporosis) khác với
· xương nhuyễn (ostemalacia);
· Paget ở xương;
· ung thư từ nơi khác di căn.
Có rất nhiều Nguyên nhân khiến xương bị ‘hủy’ nhiều hơn ‘tạo’
Những nguyên nhân thường làm cho xương có ‘lắm lỗ’ gồm:
· di truyền;
· tuổi cao niên;
· thiếu vận động, suy dinh dưởng;
· thiếu Calcium, thiếu Vitamin D;
· vài loại Hormones tăng hoặc giảm;
· bệnh Tiểu đường, gan, và thận;
· ung thư di căn hoặc Multiple Myeloma;
· dùng thuốc có corticosteroids, uống nhiều rượu, và hút thuốc lá.
Nguy cơ có thể tránh gồm:
Bệnh nhân
· ít vận động;
· hút thuốc lá;
· uống nhiều rượu;
· quá nhẹ cân;
· ít ăn những thức có có chứa nhiều chất vôi;
· thường bị ngă.
Nguy cơ khó thay đổi gồm:
Bệnh nhân
· có cha mẹ, hay ông bà, bị bệnh xương xốp hoặc đă từng bị gẫy xương v́ bệnh xương xốp;
· thuộc phái nữ;
· là người Tây phương hay Á châu;
· có thể trạng “nhỏ con”;
· chậm đến tuổi dậy th́ hoặc tắt kinh sớm;
· bị gầy ốm làm kinh không đều hoặc thất thường;
· đă từng bị gẫy xương v́ chứng xương xốp;
· có tuổi trên 60;
· bị chứng thấp khớp, bệnh gan kinh niên hoặc thận suy;
· có tuyến giáp trạng (thyroid) hoặc cận giáp trạng (parathyroid) hoạt động không b́nh thường; hoặc đă từng được điều trị bằng kích thích tố giáp trạng;
· thuộc phái nam nhưng có lượng kích thích tố nam (testosterone) thấp;
· đuợc chữa trị lâu dài bằng thuốc có chất corticosteroids.
Việc Pḥng ngừa Bệnh ‘Xương xốp’ gồm các biện pháp sau đây:
· ăn thức ăn có nhiều chất vôi và sinh tố D như sữa và phó sản của sữa (‘da-ua’, ‘phô-ma’);
· tăng thêm nguồn sinh tố D nhờ ánh sáng mặt trời; nhưng vẫn cẩn thận tránh da bị cháy nắng;
· tập thể dục, tăng vận động, mang trên người những vật khá nặng để xương cứng cáp hơn (thí dụ đi bộ, đánh vợt, nhảy múa và cử tạ tùy sức);
· uống thuốc bổ xương theo chỉ dẫn của bác sĩ;
· uống ít rượu hoặc bia, đừng hút thuốc.
Tiên lượng bệnh và Biến chứng của Bệnh ‘Xương xốp’
· Hiện nay y khoa có những phương pháp để trị chứng xốp xương, nhưng chưa có phương pháp nào trị dứt hoàn toàn.
· Gẫy xương mông có thể gây tử vong cao đến 20% trong ṿng 3 tháng, và 30% các trường hợp phải vào nhập viện săn sóc đặc biệt.
· Gẫy xương sống thường gây đau đớn, biến dạng, trở ngại di chuyển, và gây thêm bệnh hoạn hoặc biến chứng khác.
Mục tiêu điều trị và biện pháp điều trị Bệnh ‘Xương xốp’ gồm:
1. chống hủy xương cũ, với một số thuốc:
· Hormones như Estrogen, Selective Estrogen Receptor Modulators (SERMs) – Raloxifene cho nữ; Testosterone cho nam;
· thuốc loại Calcitonin;
· Bisphosphonates như alendronate, risedronate, ibandronate, và zoledronic acid.
2. tăng sinh xương mới, nhờ:
· Calcium và Vitamin D;
· tăng dinh dưỡng, và thể dục ngoài ánh mặt trời;
· Teriparatide (một loại parathyroid hormone) để kích thích sự phát triển xương mới.
Tóm lại, để đối phó với chứng Xương xốp — ‘osteoporosis’ với “bốn 0″, chúng ta cần dùng “bốn có”. Một là có pḥng ngừa chứng này trước khi xương bị xốp. Hai là có tận dụng phương tiện chẩn đoán bệnh bằng DEXA căn cứ trên nguy cơ bị chứng xương xốp. Ba là có pḥng ngừa biến chứng gẫy xương sau khi chứng xương xốp đă xảy ra. Bốn là có chữa trị chứng xương xốp và biến chứngtheo đúng những chỉ định của giới chức hữu trách.
Bs Nguyễn Nguyên