Tìm Kiếm Bài Đã Đăng
Trần Văn Tích
Nữ đồng nghiệp Cấn thị Bích Ngọc ở Canda đưa bài viết của một tăng sĩ Phật giáo đăng trên một tập san Phật học lên mạng lưới. Nội dung của bài viết bàn về bài Cáo tật thị chúng của Thiền sư Mãn Giác. Nương vào sự kiện đó, tôi viết những dòng ngẫu tác sau đây.
Bài Cáo tật thị chúng của Thiền sư Mãn Giác là một bài kệ. Chỉ có văn học Phật giáo mới có thể loại kệ. Đó thông thường là những bài thơ tóm tắt tư tưởng của bài thuyết pháp nhằm mục đích giáo dục đệ tử. Kệ có khi còn được gọi là thi kệ, kệ biệt, kệ tụng, kệ tha, già đà. Già đà là phiên âm từ chữ Phạn. Cho nên trong các tài liệu văn học Âu Mỹ, kệ được gọi là gàthà. Độ dài ngắn của kệ không nhất định. Có bài rất ngắn, như một câu tục ngữ, ví dụ câu kệ của sư Huệ Năng : Hạ hạ nhân hữu thượng thượng trí. Lại có bài kệ dài như Bồ Tát từ bi mặc nghi lự trong Trì thế vấn tật (Đôn Hoàng linh thập) gồm đến bốn mươi tám dòng.
Nhưng thông thường kệ được trình bày theo thể thơ bốn câu, mỗi câu bảy chữ và nhất là năm chữ, gọi là thất ngôn hay ngũ ngôn tứ tuyệt, gọi chung là tuyệt cú. Loại thơ bốn câu năm chữ là ngũ ngôn tuyệt cú hay ngũ tuyệt, loại thơ bốn câu bảy chữ là thất ngôn tuyệt cú hay thất tuyệt.Tuyệt cú ngắn gọn súc tích, chặt chẽ cô đọng, đậm đặc bảo hoà rất phù hợp với chủ đích ghi lại một cách nhanh chóng nhất giây phút đốn ngộ, thời điểm xuất thần của nhà tu hành. Tuyệt cú chứa đựng những năng lượng trí tuệ tích tụ đến độ căng thẳng, có tác dụng to lớn nhằm khai ngộ cho những tâm hồn khát khao chân lý Thích giáo. Cho nên kệ thuở ban đầu được gọi dựa vào chính hình thức bố trí ngôn ngữ của nó, tứ cú kệ (kệ bốn câu). Đó cũng là lý do tại sao khi Mộ Dung Bác “đốn ngộ“ trong Lục mạch thần kiếm để chợt nhận ra rằng thứ dân, đế vương cũng đều là cát bụi, nước Đại Yên khôi phục được cũng là không mà chẳng khôi phục được cũng là không thì nhà sư già trong chùa Thiếu Lâm liền đọc lên mấy câu kệ để khai ngộ cho cả họ Mộ Dung lẫn Tiêu Viễn Sơn.
Tương tự như vậy và trong Thiên long bát bộ - thiên long và bát bộ đều là thuật ngữ Phật học và được dịch sang Anh ngữ thành semi-gods, semi-devils - Kim Dung để cho Đại luân Minh vương Cưu Ma Trí đọc tại chùa Thiên long nước Đại lý một bài tứ cú kệ nói lên lẽ hữu thường mà hoá vô thường, đã hình như giả lại hình như không. Kệ là hình thức cấu trúc ngôn ngữ đặc thù để nói lên, trong một tích tắc và vào một đỉnh điểm, tư tưởng Phật học hay Thiền học. Chính khả năng hiểu biết sâu sắc về vũ trụ, về nhân sinh của đệ tử nhà Phật là động cơ thúc đẩy sự thịnh hành của kệ, nó là kết quả của nhận thức duy lý. Kệ chủ yếu là thi ca duy lý. Thiền học là lối thoát cho nhiều người lạc đường, cho chúng sinh mất hướng. Thiền tông vốn phản đối tiệm tu, chú trương kiến tánh thành Phật, đốn ngộ thành Phật, thậm chí không cần toạ thiền.
Sư Mãn Giác nhân bàn về lẽ hoá sinh ở đời trong bài kệ sáng tác trước khi viên tịch đã bảo đệ tử hãy tin tưởng ở ngày mai, hãy đón chào một mùa xuân đang tới theo qui luật tuần hoàn tất yếu của tự nhiên giới. Bậc tu hành giác ngộ lẽ đạo đã có thể vượt khỏi vòng luân hồi của pháp tướng, thoát được sự chi phối của thế giới hữu hình, khác nào như nhánh mai kỳ diệu kia vẫn cứ nở trong khi muôn hoa đà rụng hết vào buổi xuân tàn. Nhà sư viên tịch nhưng chân thân thì vượt khỏi vòng sinh tử để khai hoa vĩnh cửu. Ý thơ được trao gửi cho môn sinh qua cung cách thể hiện tứ thơ thật tươi mát và linh hoạt. Bài thơ dùng ba mươi bốn chữ để phu diễn diệu lý của đạo Thiền đồng thời ký thác lòng thơ lai láng của thi nhân. Thi phẩm tiết kiệm âm tiết đến tối đa, nó kín đáo, âm thầm, ít nói. Nó vận dụng nghệ thuật lược văn lược từ một cách tinh luyện nhưng nó cũng biểu hiện tuyệt kỷ gợi ý dẫn khởi siêu đẳng.
Phật học, Thiền học là hai lĩnh vực tưởng chứng rất xa lạ với văn chương. Vì đó là những lĩnh vực hết sức tiết kiệm tư duy bằng ngôn ngữ để lấy sự giác ngộ bằng phương pháp trực quan làm cơ sở (truyền tâm); trong khi văn chương chính là và chỉ là nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Nhưng thực là kỳ diệu : trong phạm vi ít ỏi của những từ ngữ, khái niệm được phép dùng - lắm khi là những lời trối trăn vào lúc hấp hối - các nhà sư đã từng trầm mặc suốt một đời, trước khi tử giã thế giới sắc tướng mà sang bến bờ không tịch cũng đã dùng tiếng nói thế tục nhằm nói lên chân lý thoát trần; đôi khi lai còn dùng tiếng nói thế tục để sáng tạo nên những vần thơ hoa lệ. Lúc vĩnh biệt trần gian, bằng cách nào đi nữa, con người vẫn có nhu cầu bày tỏ mối liên hệ giữa mình với đời. Chính vì thế mà tuy không phải là một bậc chân tu, nhà thơ Lý Thương Ẩn trên giường bệnh, lúc lâm chung, cũng viết một bài kệ. Thể kệ đó mang tên riêng là biệt kệ, kệ làm khi vĩnh biệt, khi thị tịch và được giới nghiên cứu thi pháp Trung Hoa chuyển thành gàthà léguée (Paul Jacob)(1) hay mot de la fin (Paul Démiéville)(2)
Theo cách thức kết hợp các thành tố trong nội bộ từ ghép của Hán văn thì một cành mai phải là nhất mai chi nhưng do âm vận của thi phẩm mà tác giả đã viết đảo ngược lại thành nhất chi mai, do bởi bài thơ hạ vần khai, lai, mai. Một số bài thơ của người Trung Hoa hay người Việt Nam cũng sử dụng kết cấu ngôn ngữ nhất chi mai này; trong câu đối quen thuộc của Hồ Quý Ly cũng thế : Quảng hàn cung lý nhất chi mai (để đối với Thanh thử điện tiền thiên thụ quế). Thực tế sáng tác hằng tỏ ra uyển chuyển mềm dẻo như vậy và thỉnh thoảng thi nghệ vẫn châm chước cho hồn thơ như thế. Tương tự như vậy, Lục Khải tác giả bài thơ tặng bạn rất hay, viết Chiết mai phùng dịch sứ / Ký dữ Lủng đầu nhân / Giang nam vô sở hữu / Liêu tặng nhất chi xuân mà đáng lẽ thì phải là nhất xuân chi (một cành xuân).
Cuối cùng, khi tác giả Thích Chân Tuệ viết “nhánh mai vàng rực rỡ trong tâm thức con người“ thì màu hoa đã được tiếp nhận sai lạc. Cành mai của thiền sư Mãn Giác màu trắng, không hề là màu vàng; nhất định như thế, chắc chắn như vậy. Tất cả những cành mai trong Đường thi Trung Hoa, trong thơ cổ Việt Nam là cành mơ trong rừng mơ rừng mận, không phải cành mai vàng ngày Tết bán trên đường Nguyễn Huệ Sàigòn trước 1975. Cây mai làm cảnh ngày Tết trong Nam là Ochna Harmandii L. Cây mai trong thi ca Mãn Giác, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Mai Am Công chúa, Lục Du, Dương Vạn Lý; cây mai trong Nhị độ mai, trong Mai đình mộng ký v.v..có tên khoa học là Prunus mume (Sieb.) Sieb. et Zucc. Nó có những đặc tính thực vật học, sinh thái học, dược liệu học mà cây mai ngày Tết của chúng ta ở Miền Nam không hề có.
Cây mai trong thi ca Hán Nôm nở hoa màu trắng. Bài Tảo mai, thơ Nôm đời Hồng Đức : Hoa bạc phau phau xâm khí tuyết (Hoa mai trắng phau, trắng hơn cả tuyết). Cũng như bài Lại vịnh hoa mai vẽ : Sương chẳng phau tung, tuyết chẳng dời và bài Lão mai: Tuyết giúp tinh thần ngọc hãy còn. Nụ hoa mai tất nhiên cũng trắng, vì vậy Trần Nguyên Đán bảo rằng nó ngậm ngọc : Mai hàm ngọc lạp truyền thiên tín (Mai ngậm hạt ngọc, đưa tin thời tiết của trời). Trong bài từ mang đầu đề Sơ xuân viết theo điệu Ức Tần Nga của Dương Vạn Lý đời Tống cũng có câu tả hoa mai màu trắng như tuyết : Lạc mai như tuyết / Dã đào hồng tiểu (Hoa mai rụng như tuyết / Hoa đào rụng màu đỏ, nhỏ bé). Trương Duyệt đời Đường, bài U châu tân tuế (Năm mới ở U châu) : Khứ tuế Kim Nam mai tự tuyết / Kim niên Kế Bắc tuyết như mai (Năm ngoái ở Kim Nam hoa mai trắng như tuyết / Năm nay ở Kế Bắc tuyết trắng như hoa mai).
Cây mai trong thơ Hán Nôm có hoa thơm. Như qua thơ Nôm Nguyễn Trãi : Ngày tuy gió chẳng bay hương (Lão mai); Lịm đưa hương một nguyệt hay (Mai thi); hay thơ đời Hồng Đức : Xuân thêm cốt cách hương càng bội (Lão mai); Mùi hương ngậm thế khôn hay (Lại vịnh hoa mai vẽ); và thơ Nhị độ mai : Hương đâu phưng phức tứ bề / Hoa đâu san sát đầy khê một vườn.
Cây mai trong thơ Hán Nôm kết trái. Trái nó khi non thì xanh và chua, khi chín thì sắc vàng và ăn được. Người thanh niên trong Trường can hành của Lý Bạch, đùa với người thương, chạy quanh giếng, vừa chạy vừa tung những trái mơ xanh (nhiễu sàng lộng thanh mai). Qua thơ Lục Du, trái mơ chín vàng trong mưa, bài Tự thương : Triều vũ mộ vũ mai tử hoàng (Mưa sáng mưa chiều trái mơ nhuốm vàng).
Cây mai trong thơ Hán Nôm là một biểu tượng thời tiết. Ở vùng sông Dương tử, sông Tương, khi xuân xắp chuyển sang hè, khoảng tháng tư tháng năm thì lúc đó mơ cũng vừa chín, thường hay có mưa; do đó mùa ấy gọi là mai tiết, mưa ấy gọi là mai vũ. Đó là cảnh trong Nhị độ mai : Hoá nhi khen khéo thờ ơ / Bởi đâu một trận gió mưa đêm trường / Sáng mai trông lọt bốn tường / Cành hoa dưới đất, mùi hương trên trời. Đó cũng là cảnh trong thơ Nguyễn Phi Khanh, bài Quán xá : Bán thấp tiêu phong hoà ngọ mộng / Nhất liêm mai vũ trợ thanh ngâm (Nửa giường gió chuối, giấc trưa êm đềm / Một rèm mưa mai, hồn thơ gợi hứng).
Cây mai trong thơ Hán Nôm cung cấp một số vị thuốc. Nếu muối quả mơ phơi héo như muối cà thì chúng ta có diêm mai. Nếu đồ quả mai rồi phơi rồi đồ nhiều lần thì chúng ta có ô mai. Hạt khô cho khổ hạnh nhân. v.v..
(2) Paul Démiéville.- Poèmes chinois d'avant la mort (Thi ca Trung Hoa lúc lâm chung). L'Asiathèque. Paris. 1984. Mot de la fin : nét chữ cuối đời.
(1) Paul Jacob.- Poètes bouddhiques des Tang (Các nhà thơ Phật học đời Đường). Gallimard (nrf). Paris. 1987. Gàthà léguée : già đà để lại.
Trần Văn Tích
NHỨT CHI MAI (PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 3)
XUÂN ĐINH HỢI 2007
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Phật-Học Tịnh-Quang Canada
Trong dịp năm hết tết đến, mọi người đều nhắc đến hoa mai. Trong văn học đại chúng, cũng như văn học Phật giáo, có nhiều bài văn bài thơ cảm tác về mùa xuân thường đề cập đến hoa mai.
Những vần thơ bất hủ, những áng văn trác tuyệt đi vào lòng người thường được nhắc tới, những câu thơ tuyệt bích trong thi ca Thiền học về không gian và thời gian, như bài thi kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền sư:
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhứt chi mai
tạm dịch:
Xuân đi trăm hoa rơi
Xuân đến trăm hoa nở
Việc đời qua trước mắt
Già theo đến trên đầu
Chớ bảo xuân qua hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai.
*
Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) họ Nguyễn tên Trường, người xứ Lũng Chiền, làng An Cách, con của Trung Thư Viên Ngoại Lang Hoài Tố, ham học, từ trẻ đã học hỏi nhiều và thông hiểu về Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo, được vua Lý Nhân Tông khen ngợi, triệu vào cung và ban cho tên Hoài Tín. Sau đó xuất gia, thuộc dòng thiền Vô Ngôn Thông, thế hệ thứ 8. Vua Lý Nhân Tông và Hoàng Hậu rất mến trọng sư, cho xây một cảnh chùa cạnh cung Cảnh Hưng để tiện việc tham hỏi về Phật học. Thiền sư mất năm 45 tuổi. Vua ban hiệu là Mãn Giác. Rất tiếc các sáng tác của sư không còn giữ lại, chỉ còn một bài "Cáo tật thị chúng"(Báo bệnh dạy chúng) rất nổi tiếng trong văn đàn Việt Nam.
Trước hết, về phương diện văn chương, đây là một trong những bài thơ tuyệt vời, thường được trong giới nhà thiền hay những văn nhân thi sĩ nhắc lại cái hay, cái đẹp của ý tứ thơ vào những độ xuân về.
Về phương diện ý nghĩa:
Bài kệ "Cáo tật thị chúng" của Mãn Giác Thiền sư, làm ra trước khi viên tịch, có ý nhắc các đệ tử rằng: xuân đến thì trăm hoa nở, xuân đi trăm hoa rụng, đó là qui luật tuần hoàn, như thiên nhiên có đến có đi, hoa có nở có tàn, con người có sinh có diệt. Điều này có thể nghiệm thấy qua mái tóc bạc trên đầu, thân thể bệnh tật, chuyện gì rồi cũng qua!
Nhưng, đừng tưởng xuân qua hoa rụng hết, đêm qua, sân trước, vẫn còn nhánh mai. Nghĩa là đừng tưởng con người ra đi là cuộc đời kết thúc. Thực ra, cuộc đời vẫn tiếp diễn theo qui luật thiên nhiên, mọi người vẫn tiếp tục cuộc sống, cây cỏ vẫn tốt tươi trở lại sau mùa đông băng giá: xuân qua, hạ đến, thu sang, đông tàn!
Lời thơ uyên áo, thiền vị, ý nghĩa tuyệt vời! Nhứt chi mai là niềm hi vọng, là cái tốt trên đời không thể mất, là sự tồn tại của các giá trị siêu việt. Người tục hiểu khác người tu, nhưng cả hai đều thấy có cái trường tồn bất diệt chi phối cõi đời này. Đó thiệt là điều đáng quí! Bài thơ quả là một thông điệp rất lạc quan!
Ngoài giá trị thi ca tuyệt tác, bài thơ sáu dòng trên nói lên sở ngộ của một bậc thiền sư. Giữa dòng đời mọi vật đều vô thường, biến đổi: đến đi, nở tàn, ngày đêm, trước sau, vẫn có mặt cái thực tại như thật, cái thực tại luôn hiện hữu cùng với con người, mà con người thường không thấy, hay bị che khuất bởi các tướng sinh diệt.
Thiền sư thì thấy rất rõ: hình ảnh nhánh mai vàng rạng rỡ trước sân của thời điểm xuân tàn.
Không phải chỉ có nhánh mai ở bên ngoài cảnh vật, còn hiện diện một nhánh mai vàng rực rỡ trong tâm thức con người, dù cho tâm trạng phiền não của buổi xuân tàn.
Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, không gian và thời gian nào, con người cũng có điều kiện mỉm cười ngắm nhìn nhánh mai ấy, mặc cho sóng gió của lịch sử, hay bát phong của cuộc đời, cũng không đủ để dập tắt nụ cười ấy, nụ cười của một bậc thiền sư. Cái sở ngộ thực tại, cái thấy thực tại ấy, khiến hành giả sống rất lạc quan, sống với niềm tin không sinh không diệt trong cuộc sống.
Há đây không phải là một sức mạnh tâm lý phi thường, đánh thức tâm thức con người, trước bao nhiêu cảnh xuân tàn đó hay sao? Đây mới thực sự là điểm sống của bài thơ trên, và là điểm sống của thi ca, văn chương thiền học Việt Nam.
Về phương diện tu học:
Mùa xuân có đến ắt có đi theo qui luật tuần hoàn của thiên nhiên, không vĩnh viễn tồn tại, cũng không vĩnh viễn mất đi, có đi ắt có đến theo vòng sanh tử luân hồi.
Con người cũng không tránh khỏi các qui luật này. Trong vòng sanh tử luân hồi, con người đã bao lần trải qua 4 giai đoạn: sanh, trụ, dị, diệt! Muốn thoát ly được sanh tử luân hồi, người tu theo Phật phải làm sao giác ngộ được bản tâm thanh tịnh bất sanh bất diệt.
Trong cuộc sống, khi tiếp xúc với cảnh trần, tâm con người sanh ra không biết bao nhiêu phiền não khổ đau.
Muốn dẹp bỏ các tâm trạng bất an này, con người cần áp dụng tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Khi các vọng tâm phiền não hoàn toàn dứt sạch, con người đạt được cảnh giới vô tâm.
Vô tâm tức là không còn bị các vọng tâm phiền não gây khổ đau nữa, nói cách khác: tức là không còn tâm tham lam, sân hận, si mê, ganh tị, đố kỵ, làm phách, mắc mỏ, ỷ già, ỷ tài, ỷ giàu sang, đang thế lực, lăng xăng lộn xộn.
Khi tất cả những thứ đó rơi rụng hết trơn, ví như xuân tàn hoa lạc tận, thì lúc đó bản tâm thanh tịnh, hay chân tâm, hiển lộ. Chân tâm bình đẳng là con người chân thật. Khi đó, con người chân thật sống trong an nhiên tự tại của niết bàn.
Nếu như phiền não (tham, sân, si) chưa dứt sạch (hoa tàn chưa rụng hết trơn), làm sao thấy được chân tâm, làm sao thấy được nhứt chi mai? Ví như mặt trời luôn sáng tỏ, nhưng vì bị mây đen (phiền não) che khuất, ánh sáng trí tuệ không tỏ đó thôi! Nếu người nào hiểu được rõ ràng thì phước biết bao! Người nào bớt được phiền não khổ đau, thì người xung quanh cũng đỡ khổ biết bao!
Cho nên kinh sách có câu: vô tâm tức niết bàn, chính là nghĩa đó vậy!
Cũng như Thiền sư Mãn Giác đã nói: hoa rụng hết, tức là các phiền não rụng hết. Khi ấy, tâm thanh tịnh hiện tiền, cũng như một nhánh mai hiện diện nơi sân trước hồi đêm qua. Sân trước, sân sau, đêm qua, đêm nay, ngụ ý chỉ sự đối đãi, sự tương đối, trên đời này: có đúng có sai, có phải có quấy, có sáng có tối, có trước có sau, có chánh có tà, có đen có trắng, có ngày có đêm!
Dù sống trong cảnh đời đối đãi nhị biên như vậy, nhưng nếu con người biết pháp môn tu tập, con người vẫn có thể giác ngộ được cái chân thật bất nhị, không còn thấy có hai, dù không gian, thời gian nào, dù người hay vật, sắc hay không, tượng trưng là: nhứt chi mai!
Thiền sư Mãn Giác diễn tả mùa xuân theo thời gian cứ tuần hoàn qua lại, xuân đi rồi xuân lại đến. Sự sự vật vật cũng theo thời gian sanh diệt, đổi thay thay đổi, gọi là cuộc đời vô thường!
Mỗi khi xuân đến thì thấy hoa nở, xuân đi thì thấy hoa rụng. Hoa rụng hoa nở theo thời gian tức là sanh diệt, diệt sanh liên tục không ngừng. Con người cũng cùng chung số phận đó, vì tóc trên mái đầu đã bạc trắng cả rồi!
Như vậy, thời gian chi phối cả vạn vật lẫn con người, không có cái gì tồn tại mãi với thời gian. Tất cả chúng ta rồi đây cũng sẽ tuần tự ra đi, kẻ trước người sau, không ai tránh khỏi!
Người đời thường bi quan trước sự vô thường biến đổi của cuộc đời như vậy, nhưng qua hai câu chót, Thiền sư Mãn Giác kết thúc thật tuyệt vời:
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhứt chi mai.
Thiền sư Mãn Giác nói: chớ bảo xuân qua là hoa rụng hết, vì đêm qua trước sân vẫn còn nhánh mai.
Thông thường, thời gian trôi qua, con người lẫn vạn vật, tất cả đều tàn phai hoại diệt. Nhưng trong khi cái vật chất hữu tướng bị hoại diệt đó, còn có một cái bất diệt, thời gian không hủy hoại được. Cũng như ngay trong thân năm uẩn sanh diệt vô thường của chúng ta, có cái thường hằng bất diệt, biểu trưng bằng một nhánh mai, tồn tại dù xuân đã qua.
Tóm lại, cái tâm suy nghĩ phân biệt, lăng xăng lộn xộn, là tâm duyên theo bóng dáng của trần đời bên ngoài.
Tâm đó sanh diệt tùy duyên, tùy cảnh mà có, không thật. Còn bản tâm hằng tri hằng giác, không đợi nghĩ suy mới có, là tâm chân thật, là bản tâm thanh tịnh, không sanh không diệt.
Bản tâm đó giúp mình, việc đến biết đến, việc đi biết đi. Bản tâm đó không hình không tướng, thênh thang trùm khắp.
Chúng ta thường ngày sống với cái tâm phân biệt hạn hẹp, tốt xấu hơn thua nên gọi là mê, mê lầm. Cái tâm phân biệt thì tùy duyên, duyên tốt thì hành xử tốt, duyên xấu thì hành xử xấu, cho nên tâm trạng sanh diệt, thay đổi luôn luôn.
Nếu người nào sống với cái tâm không sanh diệt trùm khắp thì gọi là giác, giác ngộ! Cái tâm chân thật không phân biệt, không sanh diệt, chính là cái “biết” đó thôi, không biến hoại và thường hằng.
Qua bài kệ trên đây, Thiền sư Mãn Giác nhắc cho đồ đệ cũng như chúng ta biết thân này có sanh ắt phải tử, nhưng trong cái thân sanh tử đó có cái tâm chân thật bất diệt.
Đây chính là cốt tủy của đạo Phật vậy.
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2013