Bài trước đã khảo sát các súc vật được nhắc đến trong Kinh Thi.
Bài này tiếp tục khảo sát những cây cỏ mà Kinh Thi đã ghi nhận trong một số các bài thơ.
Những tài liệu mà tôi tham khảo là:
---THI KINH QUỐC PHONG, bản dịch của cố nữ sĩ KIM Y PHẠM LỆ OANH, nhà xuất bản CÀNH NAM phát hành năm 2009 tại Huê Kỳ.
---AIRS OF THE STATES from the SHI-JING, a new Trilingual Translation by FU-SHIANG CHIA, Peking University Press, 2010.
---WIKIPEDIA, The Free Encyclopedia.
Những hình ảnh đều trích dẫn từ Wikipedia hay Google.
Tôi chân thành ghi nhận và cảm tạ những tác gỉả của những tài liệu trên.
Các thảo mộc có thể được sắp xếp như sau:
CÁC LOẠI CỎ:
Cỏ sa-tìền Phầu dĩ Cỏ kiêm (hoàn) Kiêm
Cỏ lâu(hương bài) Gia Cỏ bồ Bồ
Lau sậy Bồng Cỏ hoàn-lan Hoàn-lan
Cỏ quên Huyên thảo Ngải Ngải
Cỏ mao Đề Cỏ mã liêu Long
Lúa mì Mạch Cỏ Thiến Như-lư
Lúa nếp Thử Lúa tẻ Tắc
Cỏ thôi (ích mẫu) Thôi Cỏ thơm Tiêu
CÁC LOẠI RAU
Tiếp dư Hạnh Củ cải Phong Phỉ
Sắn dây Cát Cải đắng Đỗ
Quyển nhĩ Quyển nhĩ Rau rút Quì
Bạch cao Phồn Bối mẫu Mang
Dương-xỉ Quyết&Vi Ngải Ngải
Tần ô (cải cúc) Tần Chút chít Mộ
Tảo tiểu cầu(Rong) Tảo Trạch tả Túc
Thiều-nhiêu Thiều Hẹ Cửu
Mông Đường
CÁC LOẠI HOA
Hoa Lan Gian Hoa Sen Hà, Hạm đảm
Kiều hoa đỏ Kiều Hương tiêu Ngọc lan
Hoa dâm bụt Thuấn
CÁC LOẠI CÂY
Cây bách Cối
Cây Đào Đào Cây Thông Tùng
Cây Đỗ lê Cam đường Cây Vừng Ma
Cây Mai Mai Cây Liễu Kỷ
Cây Mận Lý Cây Đàn Đàn
Cây đường đệ(lệ) Đường đệ Cây Sơn-điều Điều
Cây táo tàu Cức Cây Hạnh Nữu
Cây bầu Bao Cây Khu(thích du) Khu
Cây tật lê Từ Cây Du(tiểu du) Du
Cây Trăn Trăn Cây Sơn-vu Khảo
Cây dẻ Lật (ức) Cây lê dại Tụy
(?) Y Cây Dâu Tang (Phù- tô)
Cây ngô đồng Đồng Cây Trúc Trúc
(?) Tử Cây đào dại Trạch sở
Cây Sơn Tất Cây cam thảo Linh
CỎ XA TIỀN
Thái thái phầu dĩ Rủ nhau ra bãi
Bạc ngôn thể chi! Tìm hái sa tiền
Thái thái phầu dĩ Sa tiền!Sa tiền!
Bạc ngôn vĩ chi! đoạt chi! Mau mau hái lấy!
Bạc ngôn loát chi! kết chi! khiết chi! Hột rơi hột rớt, Nhặt hết kẻo hoài!
Cụ Kim Y chú giải: ”Phầu dĩ là cỏ xa tiền, lá to mầm dài, hay mọc ở vệ đường.”Danh pháp khoa học là Plantago asiatica thuộc chi Mã đề. Loài thân thào này dùng để trị thùy thủng, đái buốt, tả, lị và viêm phế quản.
BỤi GAI CỎ LÂU
Kiều kiều thác tân Cỏ dại xanh tốt tơi bời
Ngôn nghệ kỳ sở Ta đi hái mớ củi gai trên rừng
Kiều kiều thác tân Cỏ dại xanh tốt ngập đầu
Ngôn nghệ kỳ lâu Ta đi hái mớ cỏ lâu đem về .
SỞ là tên một loại cây có gai tên Anh ngữ là Hawthorn.
CỎ LÂU hay mọc ở bên nước, lá mầu xanh dài chừng vài tấc.
TÂN là những loại cây xấu dùng để làm củi.
Thác tân là ví với tất cả các người con gái, Sở là ví với người con gái mình muốn cầu. Đây là bài thơ của người con trai thất vọng trong việc cầu bạn trăm năm.
LAU SẬY
Bỉ chuyết giả gia, Bỉ chuyết giả bồng Cỏ lau tươi tốt bồng bồng
Nhất phát ngũ ba Nhất phát ngũ tông Một tên bắn trúng lợn rừng năm con
Hu-ta hồ, sô-nha! Sô-ngu, mày thật lạ lùng!
Gia, Bồng HAY Hoàn vĩ là cỏ lau và sậy.
CỎ LAU hay cỏ hương bài tên khoa học là Chrysopogon zizaniodes. Cỏ này được gieo trồng tại khắp các vùng nhiệt đới và có thể cao tới 1.5 m, thường ung làm hàng rào bảo vệ ruộng nương vườn tược.
SẬY (common reed) tên khoa học là Phragmites mọc ở các vùng xình lầy hoặc theo bờ nước. Người ta dùng sậy để lợp mái nhà.
LAU SẬY
CỎ MAO
Tự mục qui đề Ngoài cánh đồng gặp gỡ
Tuân mỹ thả dị . Nàng tặng mớ cỏ mao.
ĐỀ là cỏ mao mới mọc. Còn gọi là cỏ tranh hay gianh. Tên khoa học là Imperata cylindrica.
Cỏ mao chẳng qúy giá gì, song vì của người đẹp tặng nên nó trở nên qúy gía vô ngần!
Đẹp gì một mớ cỏ mao
Đẹp vì mỹ nữ tặng trao gửi tình!
LÚA MÌ
Viên thái mạch hỹ, Ta cắt lúa
Muội chi bắc hỹ. Ở vùng Muội bắc.
MẠCH (tiểu mạch) là lúa mì, tên Anh ngữ là Wheat, tên Pháp ngữ là Blé, danh pháp khoa học là Tritrium. Lúa mì xuất phát từ Thổ nhĩ Kỳ và lan tràn qua khắp thế giới. Lúa mì xâm nhập Trung Quớc vào khoảng 2000 năm TCN.Bài thơ Thử Ly Mạch Tú thương tiếc cho đền đài nhà Thương nhà Chu đã biến thành các ruộng lúa.
Người ta dùng lúa mì làm lương thực, bia rượu và nhiên liệu sinh học.
Hàng năm, thế giới sản xuất khoảng từ 6 đến 700 triệu tấn lúa mì trong đó Canada chiếm 25-30 triệu tấn.
CỎ GIANH (TRANH)
Dã hữu tử huân Ngoài cánh dồng có con hươu chết
Bạch mao bảo chi Cỏ gianh bao kín mít trong ngoài.
Hữu nữ hoài xuân, Hoài xuân thiếu nữ đương thời,
Cát sĩ dụ chi! Gặp chàng tri trẻ buông lời bướm ong!
Bạch mao là CỎ TRANH( gianh), tên khoa học là Imperata cylindrica thuộc họ Lúa Poaceae.
Cỏ tranh mọc hoang tại Trung Quốc và Đông Nam Á, thường dùng làm vật liệu để lợp mái nhà truyền thống.
Người ta dùng rễ của cỏ tranh để làm thuốc lợi tiểu. Tro của cỏ tranh bị đốt có vị mặn, vì vậy các thú rừng thường liếm tro này để lấy muối.
LÚA NẾP LÚA TẺ
Bỉ thử ly ly, Nơi thì mạ tẻ xanh rờn
Bỉ tắc chi miêu. Nơi thì lúa nếp từng chum phất phơ.
THỬ là lúa nếp(Glutinous Rice) , TẮC là lúa tẻ (Rice, riz).
Lúa nếp và lúa tẻ danh pháp khoa học là Oryza sativa thuộc họ Poaceae. Đây là một thực phẩm quan trọng nhất thế gìới, nuôi đến 80% nhân loại. Lúa non gọi là MẠ. Sau khi gặt, người ta đập lúa thu lấy thóc.Xay thóc bỏ vỏ ngoài thì sản phẩm chính là gạo.Các phụ phẩm là trấu (vỏ thóc) dùng để đun bếp và cám thường để cho heo ăn.Trái với gạo tẻ, gạo nếp không chứa chất Gluten.
CỎ THÔI (ÍCH MẪU)
Trung cốc hữu thôi Cỏ thôi mọc ở trong hang
Hãn kỳ can hỹ . Nắng soi gió táp khô càng thêm khô.
Cỏ THÔI hay cây Ích- mẫu tên Anh là Motherwort hay Lion’s ear hay Lion’s tail, danh pháp khoa học là Leonurus cardiac thường được các bà mụ dùng làm thuốc giúp đõ sinh đẻ và chữa hậu sản. Do vậy mới có tên là motherwort hay ích-mẫu.Người ta còn dùng nó làm thuốc trợ tim và an thần.
Thân có thể cao tới 1 thước.Nó thường mọc ở các đồng hoang hay bên lề đường.
CỎ HOÀN LAN
Hòan lan chi chi Cành hoàn lan lá cũng hoàn lan
Đồng tử bội thiệp Trẻ con nứt mắt đã toan hách sằng
Fu-Shiang Chia dịch Hoàn lan sang Anh ngữ là PEA VINE. Đây là loại dây leo chi ĐẬU có tới 300 loài khác nhau trên thế giới. Danh pháp khoa học là Lathyrus.
Dưới đây là hình ảnh của ba loại.
CỎ QUÊN
Yên đắc huyên thảo Ước gì được cỏ quên sầu
Ngô thụ chi bối. Ta đem ra mé vườn sau ta trồng.
Cụ Kim Y chú giải: ”HUYÊN THẢO là Cỏ Quên hay Cỏ Hợp –hoan, ăn vào khiến cho người ta quên hết buồn phiền.”
Không kiếm dược hình ảnh của loại cỏ này.
Phỏng đoán có thể là CẦN SA (CANNABIS ) hay RAUWOLFIA
là hai loại dược thảo thường dùng để làm giảm lo âu.
CANNABIS
RAUWOLFIA
CỎ THƠM
Bỉ thái tiêu hề! Có cô con gái
Nhất nhật bất kiến Đi hái cỏ tiêu.
Như tam thu hề! Một ngày vắng mặt khác nào ba thu!
Cụ Kim Y chú giải: “Cỏ TIÊU là cỏ Thơm hay Cỏ Cao, lá trắng, thân thô, mọc thẳng, không có cành có nhánh, lúc tế lễ thường đốt lên cho thơm, nên người ta hay hái.”
Có nhiều loại cỏ thơm như cỏ phấn hương Ambrosia, cỏ thi Achìllea, cỏ xạ hương Thymus, cỏ roi ngựa thơm Aloysia ...
Không kiếm được loại cỏ như Cụ Kim Y tả. Có thể là cây sơn tiêu hay một loại ngải (Artemisia vulgaris)?
NGẢI
Bỉ thái ngải hề! Có cô con gái
Nhất nhật bất kiến Hái ngải trong rừng
Như tam tuế hề! Một ngày đằng đẵng tưởng chừng ba năm!
Người ta hái NGẢI hay rau CAO đem phơi khô dùng làm thuốc đốt để trị bệnh.
Danh pháp khoa học là Artemisia , đây là giống thân thảo hay cây bụi gồm đến 180 loại khác nhau mọc ở khắp hoàn cầu (trừ Bắc và Nam cực). Nó có vị rất đắng và chứa chất thujon dùng để tạo hương vị cho rượu Absinthe. Dưới đây là hình ảnh của một vài loại ngải.
CỎ MÃ - LIỄU
Sơn hữu kiều tùng, Cây thông mọc ở trên gò,
Thấp hữu du long. Cỏ long lại mọc dưới hồ nước sâu.
Cụ Kim Y dẫn giải: ”Cỏ LONG là một giống cỏ đỏ, còn một tên gọi nữa là mã-liễu, lá to, mọc ở các ao đầm, cao hơn một trưọng.”
Không tìm được tài liệu về cỏ này.Có thể là Tinh thảo đò Eragrostis uniloides?
CỎ THIẾN
Đông môn chi thiện! Cửa đông có bãi đất không
Như lư tại phiến. Cỏ thiến ai trồng mọc khắp gò cao!
Cỏ NHƯ –LƯ còn gọi là cỏ MAO-SƯU hay cỏ THIẾN, tên Anh ngữ là Madder, danh pháp là Rubra tinctorum.
Rễ cây này chứa những chất dùng để làm thuốc nhuộm vải thành mầu Rose madder hay cho vào sơn làm thành mầu Mad- der lake.
CỎ HOÀN
Kiêm gia thương thương Xanh xanh mấy khóm hoàn già
Bạch lộ vi sương Đầu cành móc trắng sương sa ướt đầm.
Cụ Kim Y chú thích: “Cỏ KIÊM hay LIÊM giống như cỏ HOÀN nhưng nhỏ hơn. Thân cao chừng 2 hay 3 thước.”
Có thể đây là một loại CÓI (Sedge) danh pháp khoa học là Cyperus.
CỎ BỒ
Bỉ trạch chi ba Kìa xem ở dưới bờ hồ
Hữu bồ dữ hà. Hoa sen tươi tốt, cỏ bồ xum xuê.
Cỏ BỒ thuộc bộ Hòa Thảo, danh pháp khoa học là Typha (CATTAIL), là một loại cỏ có hoa còn được gọi là cỏ nến, cỏ lác, bồn bồn.
Người ta sử dụng hoa của cỏ này để làm thuốc với tên là bồ hoàng. Người Việt nhổ gốc non để làm dưa muối gọi là dưa bồn bồn.
CỎ LANG
Liệt bỉ hạ toàn Nước suối lạnh ngắt như băng
Tấm bỉ bào lang Thấm vào những bụi cỏ hoang ven hồ
LANG là cỏ dại làm hại mùa màng.
CỎ YÊU
Tứ nguyệt tứ yêu Viễn-chí có qủa tháng tư
Ngũ nguyệt minh điêu Ve kêu ra rả tiết vừa tháng năm.
VIỄN-CHÍ là một thực vật có hoa thuộc bộ Đậu, danh pháp là Polygala.Giống này có tới gần 1000 loại dưới các dạng thân thảo, cây bụi và cây thân gỗ.
CỎ THI
Liệt bỉ hạ toàn Tẩm bỉ bào thi.
Cỏ THI là một thân thảo có hoa thuộc họ Cúc Asteraceae. Danh pháp khoa học là Achillea, dựa theo một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp. Tên Anh ngữ thông thường là Yarrow .
Người Tây Phương đã dùng cỏ này làm thuốc từ thời tiền sử.
Người Trung Hoa còn dùng cỏ này trong bói toán ( Bốc: bói bằng mu rùa, Phệ: bói bằng cỏ thi.)
RAU TIẾP DƯ
Sâm si hạnh thái Thấp tho rau hạnh
Tả hữu lưu chi Giữa lạch nước trong.
Yểu điệu thục nữ Ngọn rau nghiêng ngả theo dòng nườc trôi
Ngụ mị cầu chi Dịu dàng thục nữ như ai
Sau bao nhiêu thời giờ nghiên cứu tra khảo tìm tòi cũng vẫn không biết rau hạnh là rau gì!
Dịch giả Kim Y chú giải: “Hạnh là cây tiếp dư.Gốc sinh đáy nước, thân như nhánh của cái trâm, trên xanh dưới trắng, lá đỏ tía, đường kính độ hơn một tấc, nổi ở trên mặt nước.”
Như vậy ta phải phỏng đóan đây là một loại súng. Chỉ có một loại súng lá đỏ, đó là Nymphaea pubescens hay rubra được gọi nôm na là Pink water-lily.
Dịch giả Fu-Shiang Chia dịch là Water fringe. Đây là danh từ chỉ một loại súng có tên khoa học là Nymphoides peltate.
Lá, thân hoa và hạt của loại súng này đều dùng làm thực phẩm được.
RAU SẮN DÂY
Cát chi đàm hề Dây sắn bò lan trong hang
Dị vu trung cốc Lá non mơn mởn xanh càng thêm xanh,
Tên tiếng Anh là Kudzu hay cloth vine, tên khoa học là Pueraria thomsoni, tên Trung hoa là cát căn, phấn cát căn, bạch cát, tên Thái là bẳn mắm kéo, tên Việt là củ sắn dây.
Đây là một loại dây leo sống lâu, có thể dài tới 10 thước. Nó là một loài xâm lấn mọc rất lẹ, bao phủ các cây khác làm cho các cây này không sinh trưởng được vì thiếu ánh sáng.
Cây này đã lan tràn qua Bắc Mỹ.
Rễ củ và lá cây được dùng làm thuốc trong Đông Y.Người Việt dùng bột củ sắn dây pha làm nước uống hay nấu chè. Người ta ăan củ sắn luộc hay trộn với gạo nấu cơm hay đồ xôi.
RAU QUYỂN NHĨ
Thái thái quyển nhĩ Vào rừng hái mớ rau tươi
Bất danh khuynh khuông Giỏ nghiêng rau vẫn còn vơi lưng chừng
Ta ngã hoài nhân Nhớ ai xa cách muôn trùng
Chi bỉ chu hang Thẫn thờ đặt chiếc giỏ nông bên đường.
Cụ Kim Y ghi chú: ”Rau quyển nhĩ lá giống như tai chuột, mọc thành bụi như cái mâm.”
Fu-Shiang Chia dịch quyển nhĩ sang Anh ngữ là Cocklebur.
Không thấy có danh từ tiếng Việt .
Wikipedia cho biết Cocklebur là một loại cỏ dại (weed) danh pháp khoa học là Xanthium strumarium. Cây và lá có thể ăn được, nhưng chỉ nên ăn ít thôi, vì ăn nhiều sẽ bị ngộ độc.Còn hạt trong trái thì không ăn được vì có chứa một loại thuốc độc cực mạnh là chất carboxyatratyloside.Thế nhưng hạt đem phơi ép làm dầu thì DẦU lại ăn được!
MẦM LÁ TRÁI
RAU BẠCH CAO
Vu dĩ thái phồn Men theo bờ lạch bờ ao
Vu chiểu vu chỉ Rủ nhau ta hái bạch cao đem về.
PHỒN là rau bạch cao, một loại ngải. Tên Anh là Mugwort, danh pháp khoa học là Artemisia vulgaris.
Người Đức, Trung Hoa, Nhật Bản và Đại Hàn dùng bạch cao như gia vị hay các món ăn như xà lách, canh, đồ xào hoặc trộn vào các món bánh.
Ngoài ra, bạch cao rất thông dụng trong Đông Y.
RAU DƯONG-XỈ
Trắc bỉ Nam sơn Trèo lên núi Chung nam
Ngôn thái kỳ quyết Hái rau vi rau quyết
Trắc bỉ Nam sơn Chưa thấy chàng lòng xiết thương đau!
Ngôn thái kỳ vi
Cụ Kim Y chú thích: “Rau quyết khi mới mọc chưa có lá, ăn được. Rau vi cũng giống rau quyết nhưng hơi lớn hơn, có ngạnh mà đắng, người ở miền núi vẫn thường ăn, gọi là rau mê quyết.”
Fu-Shiang Chia dịch sang Anh ngữ là Fiddlehead Ferns.
Đây là rau DƯƠNG-XỈ hay RAU ĐUÔI CHỒN rất được dân Bắc Mỹ ưa chuộng và là thổ sản của CANADA.
RAU TẦN Ô
Vu dĩ thái tần Ta đi hái rau tần
Nam giản chi tân Ở bờ khe phía nam
Rau TẦN Ô còn gọi là cải cúc, tên khoa học là Chrysanthemum
Coronarium.Người ta có thể luộc rồi trộn với muối mè làm nộm, hoặc nấu canh với thịt heo nạc . Ngoài ra, đây cũng là món rau chính yếu trong món cháo ám của ngưới Việt miền Bắc. Cháo ám là cháo trắng nấu với cá chép hay cá qủa (lóc). Cá được lọc ra sau khi nấu chín, ăn một miếng cá nhỏ với một miếng thịt ba rọi luộc cuộn với cọng hành ta cũng luộc chín, kèm rau cải cúc chấm nước mắm ngon và húp tô cháo nóng. Ăn cháo này vào một buổi tối mùa đông thì ngon tuyệt trần!
RAU TẢO
Vu dĩ thái tảo Ta đi hái rau tảo
Vu bỉ hành lạo. Ở lạch nước bên đường
Rau TẢO là RONG---ALGAE.
Có hai loại tảo: rong nước ngọt (tảo xoắn) và rong nước mặn hay rong biển (rong mơ).
Rong nước ngọt người ăn được có tảo tiểu cầu và rau câu.
Tảo tiểu cầu tên khoa học là Chlorella thường được dùng làm thức ăn phụ và làm thuốc.Rau câu (rau ngoi, quỳnh chi) tên khoa học là Gracilaria thường được dùng để nấu thạch xu-xoa.
Người Nhật dùng loại rong biển đỏ Porphyra để làm NORI (Người Đại Hàn gọi là GIM). Sản phẩm mỏng như tờ giấy, to khoảng 18x20cm, dùng để cuốn sushi hay onigiri.
NORI SUSHI PORPHYRA
RAU PHONG & RAU PHỈ
Tập tập cốc phong Nồm đông hây hẩy,
Dĩ âm dĩ vũ Mưa gió mịt mùng.
Mẫn mẫn đồng tâm, Vợ chồng gắng sức đồng lòng,
Bất nghi hữu nộ! Chẳng lên mặt vực mày lưng, dại đời!
Thái phong thái phỉ, Hái rau phong phỉ kìa ai,
Vô dĩ hạ thể, Đừng vì cuống xấu bỏ hoài lá non.
Đức âm mạc vi Tiếng hay giữ được vẹn tròn
Cập nhĩ đồng tỉ! Thì xin sống thác sắt son cùng chàng!
Cụ Kim Y chú giải: “Rau phong tức là rau man-tinh. Rau phỉ giống như rau phúc, cây thô, lá dài mà dầy, có lông.Rau phong rau phỉ cuống gốc đều ăn được, nhưng gốc nó tùy từng mùa, có mùa ngon, có mùa không ngon.”Fu-Shiang Chia dịch sang Anh ngữ là turnip và daikon, tức là củ cải Tây và củ cải ta.
RAU ĐỖ & RAU TỄ
Hành đạo trì trì, Dùng dằng chẳng muốn đi ngay
Trung tâm hữu vi Chàng đưa ra cửa vội quay trở vào
Bất viễn ý nhĩ, Rau đỗ có đắng là bao?
Bạc tống ngã kỳ. So cùng rau tễ rau nào cũng ngon.
Thủy vị đỗ khổ? Chàng ham vui thú tân hôn,
Kỳ cam như tễ Như anh em ruột keo sơn nào bằng!
Yến nhĩ tân hôn,
Như huynh như đệ.
ĐỖ là tên một loại rau đắng.TỄ là tên một loại rau ngọt.
Fu-Shiang Chia dịch Đỗ là SOW THISTLE, Tễ là LICORICE. Sow thistle tên khoa học là Sonchus oleraceus là loại rau rất được heo và thỏ ưa chuộng.Người Trung Hoa gọi nó là cải đắng thường dùng trong các món xào.Licorice hay cam thảo là rễ của cây Glycyrrhiza uralensis . Rễ đem phơi khô có vị ngọt, thơm mùi hồi, được dùng làm gia vị trong ẩm thực cũng như trong các toa thuốc của Đông Y.
cải đắng lá cam thảo
RAU MÔNG
Viên thái đường hỹ, Sang làng Muội
Muội chi hương hỹ . Hái rau đường.
ĐƯỜNG là rau mông, còn một tên nữa là thỏ-ty (Kim Y). Đây là CÂY TƠ HỒNG còn gọi là cây KÝ-SINH, tên Anh ngữ là Devil’hair, hairweed, angelhair, tên khoa học là Cuscuta chinensis. Trái cây phơi khô dùng làm thuốc trong Đông Y.
RAU HẸ
Hiến cao tế cửu Dâng lễ vật bằng thịt dê rau hẹ.
Cửu là HẸ, còn gọi la Cửu thái hay Khởi dương thảo. Danh pháp khoa học là Allium tuberosum.
Người ta dùng hẹ trong nhiều món ăn cũng như trong nhiều toa thuốc Đông Y.
RAU B ỐI MẪU
Trắc bỉ a khâu, Trèo lên trên núi trên đồi,
Ngôn thái kỳ mang. Hái rau bối mẫu cho nguôi nỗi nhà.
MANG là lá BỐI MẪU dùng để trị bệnh uất kết.
Fu-Shiang Chia dịch sang Anh ngữ là Toad Lily, danh pháp khoa học là Tricyrtis thuộc họ Liliaceae.
Giống này mọc từ Hi-mã-lạp-sơn qua Trung Quốc đến Nhật Bổn, Phi luật Tân và Đài Loan.
RAU CHÚT CHÍT
Bỉ Phần thự nhự, Kìa ai ra bến hái rau
Ngôn thái kỳ mộ, ngôn thái kỳ tang Kìa ai ra bãi hái dâu chăn tằm.
MÔ là rau CHÚT CHÍT, danh pháp khoa học là Rumex acetosa.
Cây có thể cao tới 60cm . Lá cuống dài, vị chua nhẹ, có thể ăn sống hoặc nấu canh hay nghiền ra làm nước xốt hay làm thuốc.
Nó là thuốc nhuận tràng và chứa chất axít oxalic, do vậy những người bị bệnh thấp khớp (gout) và sỏi thận phải kiêng ăn món rau này.
RAU TRẠCH TẢ
Bỉ Phần nhất khúc, Ngôn thái kỳ tục.
TỤC là rau TRẠCH TẢ thuộc họ Mã đề nước, danh pháp khoa học là Alisma plantago-aquatica, là một thân thảo có hoa sống thủy sinh trong các ao hồ và đầm lầy.
Trong Đông Y, lá rau này được sử dụng để trị chứng đau lưng, tiêu chảy và chóng mặt.
RAU MÁC SAGITTARIA ALISMA
RAU RÚT ĐẬU NÀNH
Lục nguyệt thực uất cập úc, Tháng sáu ăn mận ăn nho,
Thất nguyệt phanh quì cập thúc. Tháng bẩy rau đậu nấu kho thường ngày.
QUÌ là RAU RÚT danh pháp khoa học là Neptunia olearacea. Hoa mầu vàng, có 6 hạt dẹt nhẵn. Rau được trồng ở các ao hồ làm rau ăn, thường thường là nấu canh hay đem xào.
THÚC là ĐẬU NÀNH hay đỗ tương, tên khoa học là Glycine L.max đuợc trồng ở hầu hết thế giới và là một nguồn lương thực có tầm quan trọng ngang hàng với các mễ cốc như lúa và ngô khoai.
C ÂY Đ ÀO
Đào chi yêu yêu Cây đào non mơn mởn
Chước chước kỳ hoa Rực rỡ muôn đóa hoa
Chi tử vu qui, Thiếu nữ vui duyên mới,
Nghi kỳ thất gia Êm hòa đạo thất gia.
mộc qua kavkaz mộc qua trung quốc
Fu-Shiang Chia dịch đào ra Anh ngữ là QUINCE. Thật ra, tên Trung Hoa của Quince là MÔC QUA. Có 2 loại Mộc qua: mộc qua Kavkaz ( Cydonia oblonga) và mộc qua Trung quốc (Pseudocydonia sinensis ).
Tôi nghĩ cây đào trong bài thơ này phải dịch là PEACH TREE, danh pháp khoa học là Prunus persica.
Người ta chấp nhận là cây đào xuất phát từ Trung Quốc và lan tràn sang Ba Tư theo con đường tơ lụa cả ngàn năm trước công nguyên.Qủa đào tượng trưng cho trường thọ và gắn bó với tình yêu trong nhiều ca dao của dân Việt.
ĐÊM QUA MẬN MỚI HỎI ĐÀO
VƯỜN XUÂN ĐÃ CÓ AI VÀO HÁI HOA?
Trái đào có 2 loại: loại “hột rời” và loại “hột dính”, cũng như loại có cùi thịt trắng hay thịt vàng.
Người Á Đông thích ăn loại thịt trắng ít chua, còn người Âu Châu và Bắc Mỹ thì lại ưa loại thịt vàng.
Qủa Xuân đào không có lông tơ da mịn cũng là một loại đào.
Người ta ăn đào tươi hay dùng làm mứt hay bánh ngọt.
CÂY ĐỖ LÊ
Tế phế cam đường Cây cam đường lá xanh xanh
Vật tiễn vật phạt Đừng cắt ngọn chớ cắt cành
Thiệu bá sở bạt. Năm xưa Thiệu bá tuần hành
Đã từng lợp túp lều tranh chốn này.
Cụ Kim Y chú thích: ” Cam đường là ĐỖ LÊ. Trắng gọi là đường, đỏ gọi là đỗ.”
Lê được loài người biết đến và trồng trọt từ thời tiền sử. Danh pháp khoa học là Pyrus, người Anh gọi là Pear, người Pháp gọi là Poire. Lê xuất hiện tại Thiền Sơn miền Tây Trung Quốc cách
CÂY MAI CÂY MẬN
Phiếu hữu mai Qủa mai lác đác rụng rồi,
Kỳ thực thất hề! Mười phần còn bẩy chơi vơi trên cành
Cầu ngã thứ sĩ Nào ai lòng muốn rắp ranh
Đãi kỳ cát hề! Xin đừng có để ngày lành qua đi!
MAI (Plum), MẬN (Prune) đều thuộc chi Prunus.
LÝ là mận, được nhắc đến trong bài Hà bỉ nùng hỉ, Hoa như đào Lý.
CÂY ĐƯỜNG ĐỆ (LỆ)
Hà bỉ nùng hỉ? Cây gì rực rỡ như kia?
Đường đệ chi hoa Ấy cây đường đệ đương kỳ nở hoa.
Cụ Kim Y chú thích: ” Cây đường đệ người Giang Đông gọi là cây phù- di, hơi giống cây bạch dương.”
Đây là cây thuộc phân họ Hải đường hay Táo Tây (tên khoa học là Maloideae) gồm nhiều chi trong đó có đường lệ (Amelanchier), anh đào dại (Aronia) và táo Tây dại (crabapple).
Đường lệ Amelanchier Anh đào dại Aronia Crabapple
CÂY TÁO TÀU
Khải phong tự nam Trời nam hây hẩy gió nồm
Xuy bỉ cức tâm Thổi vào những bụi táo non trên đồi
Cức tâm yêu yêu, Táo non mơn mởn xanh tươi
Mẫu thị cù liêu! Mẹ hiền khó nhọc xuốt đời vì con!
CỨC hay ĐẠI TÁO hoặc hồng táo tên Anh thông thường là Jujube hay Chinese date, tên khoa học là Ziziphus ziziphus, là một loại cây nhỏ có gai thuộc họ Táo Rhamnaceae. Trái vị ngọt dùng để nấu chè hoặc làm mứt hay pha trà hay ngâm rượu làm tửu táo.Táo tàu là một nguyên liệu quan trọng trong Đông Y.
CÂY BẦU
Bao hữu khổ diệp Cây bầu nọ đang mùa lá đắng
Tế hữu thâm thiệp. Bến đò này sâu lắm ai ơi!
Thâm tắc lệ, Sâu thời dấn áo mà bơi,
Thiển tắc khế. Nông thời vén áo ta thời lội sang.
BAO là CÂY BẦU. Tên khoa học là Lagenaris vulagaris, đây là loại dây leo có trái non thường dùng để nấu canh.
Bầu và bí thấm nhuần vào đời sống bình dân của người Việt qua những câu ca dao:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Hoặc: Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Trái bầu già đem nạo ruột phơi khô chế thành nậm (gourd) đựng nước hay rượu hoặc chế ra đàn
CÂY TRĂN CÂY LINH
Sơn hữu trăn Cây trăn mọc ở trên đồi
Thấp hữu linh Cây linh lại mọc giữa nơi đồng lầy.
Cây TRĂN giống cây LẬT (DẺ) mà nhỏ hơn. Đây là cây Chinese HAZEL, tên khoa học là Corylus chinensis. Trái của cây này ăn được, tên Anh là Hazelnut.
Cây LINH hay cam thảo có hai loại: cam thảo bắc tên khoa học là Glycyrrhiza uralensis có rễ dùng làm gia vị và làm thuốc. Loại thứ hai là cam thảo dây (cườm thảo đỏ, tương tư đẳng, cảm sảo, hương tư tử)danh pháp là Abrus precatorius, cây và qủa có độc tính nhưng có thể dùng làm thuốc.
CÂY TẬT LÊ
Tường hữu từ Quét sao hết giống dây từ
Bất khả tẩu dã Leo chằng leo chịt làm dơ khắp tường!
TỪ “là cây TẬT LÊ, lá nhỏ, mọc leo, qủa có ba cạnh” (Kim Y) .
Fu-Shiang Chia dịch sang Anh ngữ là BURDOCK tên khoa học là Arctium. Tôi nghĩ là không đúng. Đây là một loại cây có thể cao tới 71cm.
TẬT LÊ có lẽ là cây mà người Âu Mỹ gọi là IVY, danh pháp là Hedera helix, một loại dây leo thường lan phủ mặt đất hay bò lên các bức tường.
BURDOCK IVY
Frank Lloyd Wright nói: ” Doctors bury their mistakes. Architects cover them with Ivy.”
CÂY LẬT (DẺ)
Tác vu sở thất, Hoàn thành cung thất xong rồi
Thụ chi trăn lật. Trồng trăn trồng lật kịp thời ngay đi.
Cây LẬT (Chestnut, Châtaignier) là CÂY DẺ, lớn hơn cây TRĂN (Hazel) .
Hạt dẻ (marron) đem rang bóc vỏ ăn rất bùi .Người Pháp còn làm một loại mứt ngon nổi tiếng thế giới, đó là marrons glacés.
Hiện nay, cây dẻ to và già nhất thế giới là cây Hundred Horse Chesnut mọc gần sườn núi Etna vùng Sicile, Ý đại Lợi.
Y ĐỒNG TỬ TẤT
Y đồng tử tất Lại trồng tử, tất, đồng, y
Viên phạt cầm sắt. Chế đàn cầm sắt ta thì gẩy chơi.
Cụ Kim Y chú giải: ” Qủa Y giống qủa cây tử, vỏ giống vỏ cây ngô đồng.Cây Tử là loại cây rụng lá, thân cao tới hai trượng. Tất là cây sơn, có nhựa, có thể sơn được đồ dùng.”
Y: Vẫn chưa kiếm ra được là cây gì sau nhiều giờ tra cứu.
ĐỒNG: là cây ngô đồng, tên thông thường để gọi cây ĐỖ TRỌNG: Danh pháp khoa học là Eucommia ulmoides, cây này đã tuyệt chủng tự nhiên nhưng được trồng khá nhiều tại Trung Quốc để lấy vỏ làm thuốc cổ truyền.Cây này còn được gọi là “gutta-percha tree” (Cây chây trung, nhựa kết) hay “Chinese rubber tree”(cây cao su Trung Hoa).Cây có thể cao tới 15m.
TỬ: Chưa biết loại cây gì.
TẤT: Có thể là cây SƠN Goldenrain tree hay China tree hay Varnish tree, tên khoa học là Koelreuteria paniculata.Nhựa cây dùng làm vẹc-ni đánh bóng gỗ.
Gỗ của bốn loại cây này thường được dùng để chế tạo nhạc cụ như đàn cầm đàn sắt.
CÂY ĐỖ TRỌNG
CÂY TẤT
CÂY DÂU
Giáng quan vu tang Xuống coi khu đất trồng dâu
Bốc vân kỳ cát. Bói xem một qủe về sau thế nào.
TANG hay PHÙ-TÔ hay PHÙ-TƯ là CÂY DÂU (Mulberry), thuộc chi Morus . Loài dâu trắng Morus alba là thức ăn của tằm (Bombyx mori).Loài người đã biết trồng dâu nuôi tằm từ trên 3000 năm TCN.
C ÂY TR ÚC
Chiêm bỉ Kỳ úc Kìa trông góc bến Kỳ giang
Lục trúc y y. Trúc non mơn mởn mỡ màng xanh tươi.
Y Y là trúc non mới mọc, LỤC TRÚC là trúc xanh tươi. Tên khoa học là Phyllostachys là một chi thuộc tông Tre. Người Á đông có tên riêng cho tre và trúc, còn người Tây phương gọi cả hai giống là Bamboo (Anh) hay Bambou(Pháp).
TRÚC XANH TRE TRÚC ĐEN
CÂY BÁCH CÂY THÔNG
Kỷ thủy du du, Sông Kỳ nước chảy liên miên,
Cối tiếp tùng chu. Mái chèo gỗ cối con thuyền gỗ thông.
CỐI là một loại cây BÁCH (Cypress) thuộc họ Hoàng đàn Cupressaceae .Họ này giữ kỷ lục gồm cây to nhất (SEQUOIDENDRON), cao nhất (SEQUOIA), lớn nhất (CYPRESS MONTEZUMA)và sống lâu hàng thứ hai trên thế giới (3622 năm).
TÙNG là cây THÔNG (Pine) một chi trong họ Thông Pinaceae. Trên thế giới, có đến cả mấy trăm loại thông khác nhau.
CÂY VỪNG
Khâu trung hữu ma, Bỉ lưu Tử-Ta.
MA là cây VỪNG hay MÈ, tên khoa học là Sesamum indicum.
Cây có thể cao thới 1.5m .Hạt nhỏ, chứa tới 50% dầu.Vừng đem rang trộn với muối rồi giã nhỏ là món ăn rất được những người ăn chay ưa chuộng.Kẹo vừng và bánh tráng vừng là những món qùa rất được người Việt chiếu cố. Có loại vừng đen nấu chè chế-mà-phù.
Đừng lộn với cây DẦU MÈ Jatropha curcas (cọc giậu, dầu lai).
CÂY LIỄU
Thương Trọng-tử hề! Xin chàng Trọng-tử khoan khoan!
Vô du ngã lý. Đừng sang làng thiếp
Vô chiết ngã thụ kỷ! Bẻ càn liễu xanh!
Cụ Kim Y chú thích: ” KỶ là một loại cây giống LIỄU, mọc ở gần nước.Thân giống cây liễu, lá thô mà trắng, thớ đỏ.Loại cây này hay mọc ở ngòi rãnh trong làng.”
Liễu tên Anh là Willow hay Sallow thuộc chi Salix, vỏ cây chứa axít Salicylic là chất hóa học chế biến thuốc Aspirin dùng để chữa đau nhức, viêm nhiệt và làm cho máu loãng.
CÂY ĐÀN
Thương Trọng-tử hề! Xin chàng Trọng-tử khoan khoan!
Vô du ngã viên. Đừng sang vườn bẻ
Vô chiết ngã thụ đàn! Cây đàn nhà ta!
ĐÀN là cây vỏ xanh trơn, nhẵn, gỗ thơm dùng để làm hương cúng tế.
Tên Anh là Sandalwood thuộc chi Santalum. Có hai loại chính:
Ấn Độ (S.album) và Úc (S. spicatum).
Cây đàn hiện nay đang bị đe dọa tuyệt chủng.
Nên tránh lộn cây này với cây Bạch đàn trắng thuộc chi Eucalyptus là thổ sản của Úc châu.
CÂY KHU & CÂY DU
Sơn hữu khu, Cây khu mọc ở trên đồi
Thấp hữu du. Cây du dưới vũng nảy chồi tốt xanh.
KHU hay cây THÍCH-DU và DU hay cây TIỂU-DU hay BẠCH-DU có tên Anh là ELM (Chinese Elm, Lacebark Elm) và danh pháp khoa học là Ulmus parvifolia.
Loại cây này gần như tuyệt chủng tại Âu châu và Bắc Mỹ vì nhiễm bệnh nấm (Dutch Elm Disease DMD) và sậu bọ vào hậu bán thế kỷ 20. Riêng miền Tây Canada thoát nạn vì canh phòng cẩn mật.
Gỗ của các loại cậy này rất cứng cáp và thường được dùng để đóng đồ đạc.
CÂY SƠN - VU
Sơn hữu khảo, Cây sơn-vu mọc trên đồi,
Thấp hữu nữu. Cây ức lại mọc ở ngoài đồng sâu.
KHẢO là cây SƠN-VU, tên Anh ngữ là tree of heaven, danh pháp khoa học là Ailanthus altissima thuộc họ Simaroubaceae.
Cây có thể mọc cao tới 15m .Rễ, lá và vỏ cây đều được dùng làm thuốc trong Đông Y. Cây này cũng là môi sinh nuôi tằm của loại bướm Sania Cynthia liên quan đến việc sản xuất ra một loại lụa gọi là lụa Shantung. Cây này đã được du nhập vào Âu châu và Huê Kỳ .Hoa của nó có mùi hôi khó chịu.Có rất nhiều cây này trồng ở New York và Chicago.
CÂY HẠNH
Sơn hữu khảo, Thấp hữu nữu.
NỮU là cây ỨC, theo chú thích của Cụ Kim Y. Lá cây ức giống lá cây hạnh mà nhọn, sắc trắng, vỏ cây đỏ.Loại cây này phần nhiều cong, ít có cây thẳng.Dùng làm cán nỏ.
Phải chăng đây là một loại cây hạnh nhân? ( Prunus dulcis).
CÂY DƯƠNG
Bản hữu tang, Cây dâu mọc ở ven đồi
Thấp hữu dương. Cây dương lại mọc bên ngoài đồng hoang.
DƯƠNG (Poplar, peuplier) là loại cây thân gỗ, danh pháp khoa học là Populus thuộc họ Saliacaceae.
Lá cây trở thành mầu vàng vào mùa thu và rụng rất sớm.
Ngoài ra, còn có cây BẠCH DƯƠNG, tên Anh ngữ là Birch, tên Pháp ngữ là Bouleau, thuộc chi Betula. Gỗ cây này thường dùng làm ván ép và nhạc cụ như trống và loa.
CÂY SƠN - ĐIỀU
Chung-nam hà hữu? Núi Chung-nam có gì hay?
Hữu điều hữu mai. Có hoa mai trắng có cây sơn-điều.
ĐIỀU là cây SƠN-THU hay THANH LƯƠNG TRÀ, tên Anh ngữ là Rowan tree thuộc chi Sorbus gồm cây bụi và cây gỗ. Sorbus phân chi Aria mọc ở châu Á (Sorbus aria).
Gỗ thân cây này tốt, thường dùng làm ván xe. Người Anh gọi gỗ cây này là White Beam.
CÂY XÍCH-LA
Sơn hữu bào lệ, Trên đồi có cây đường-lệ
Thấp hữu thụ tụy (toại). Dưới đồng xâu có cây xích-la.
Cụ Kim Y chú thích: ” TỤY hay TOẠI là cây xích-la sống trên núi, có qủa giống qủa lê nhưng nhỏ hơn, vị chua, có thể ăn được.”
Đây có thể là cây Pyrus pyraster là cây lê dại (wild pear tree).
CÂY NHO DẠI
Lục nguyệt thực uất cặp úc. Tháng sáu ăn mận ăn nho.
ÚC là qủa NHO dại hay dã -bồ -đào. Hiện nay không còn nho dại nữa vì hầu hết các giống nho đều được thuần hóa trồng để ăn trái hay chế thành rượu vang.
Danh pháp khoa học là chi Vitis gồm cả trăm loài khác nhau.
CÂY DƯƠNG ĐÀO
Thấp hữu trành sở, Ngoài cánh đồng có cây đào dại,
A na kỳ chi. Cành đào sao mềm mại xanh tươi.
TRÀNH SỞ là cây đào dại hay DƯƠNG ĐÀO hay MI HẦU ĐÀO (qủa KIWI), tên khoa học là Actinidia deliciosa. Giống này gồm các bụi cao đến 6 thước cho đến các loài dây leo dài tới 30 thước.
KIỀU HOA ĐỎ
Thị nhĩ như kiều, Trông nàng như bông hoa kiều,
Cụ Kim Y chú giải: ”KIỀU là cây tỷ-phầu, còn gọi là kinh-quì, sắc đỏ.”
Có thể là một địa lan tên khoa học là Calanthe rubens.
HƯƠNG TIÊU
Dĩ ngã ốc tiêu. Nàng trao ta nắm hương tiêu ngát lừng!
TIÊU là HƯƠNG TIÊU hay là hoa NGỌC LAN thuộc chi Giỗi Michella họ Magnoliaceae.Hoa có mùi thơm dịu dàng thường tỏa ra về buổi chiều.
HOA SEN
Sơn hữu phù-tô, Trên núi có cây phù-tô,
Thấp hữu hà phô (hoa). Dưới vũng dưới hồ có giống hoa sen.
HÀ HOA là HOA SEN (Lotus ) thuộc chi Nelumbo .
Hoa thánh liên hệ đến Phật giáo là loài Nelumbo nucifera.
Nelumbo lutea là hoa sen trắng.
HOA LAN
Sĩ dữ nữ, Bờ sông đôi bạn chung tình
Phương bỉnh gian hề! Cùng nhau vừa hái một cành lan hoa!
GIAN là hoa LAN. Theo Cụ Kim Y, đây là TRẠCH-LAN, đốt to mà dài, giữa đốt đỏ, cây cao tới 4 hay 5 thước.Còn gọi là cây MẦN TƯỚI hay HƯƠNG THẢO, tên khoa học là Eupatorium fortunei, hoa mầu hơi tím và thơm.Lá non dùng nấu canh, lá già phơi khô làm thuốc.
Tuy nhiên, ta cũng có thể hiểu đây là PHONG LAN, tên khoa học là Orchidaceae.Họ thực vật này có đến gần 1000 loại khác nhau.
Ngoài ra, cón có HOÀNG LAN hay ngọc lan tây hay Ylang công chúa, tên khoa học là Cananga odorata . Hoa này thơm nồng và đậm.Nó là đề tài cho tiểu thuyết Dưới bóng Hoàng Lan của nhà văn Thạch Lam.
HOA MỘC-CẬN
Hữu nữ đồng xa, Cùng xe có ả,
Nhan như thuấn hoa. Nhan sắc như hoa mộc- cận .
THUẤN hay MÔC-CẬN là hoa DÂM BỤT hay hoa PHÙ TANG, danh pháp khoa học là Hibiscus rosa-sinensis, mầu sắc rực rỡ nhưng không có hương và sớm nở tối tàn.
Mục đích của hai bài biên khảo” SÚC VẬT và THẢO MỘC trong KINH THI” là để giúp cho độc giả nhìn thấy tận mắt những sinh vật được đề cập tới trong cuốn sách cổ đã có từ hơn hai ngàn năm.
Những bài thơ trong Kinh thi đều là những câu ca dao và thi ca xuất phát từ dân dã, được đức Khổng Tử và hai anh em họ Mao thu thập, san định và chú giải.Lời lẽ những bài thơ mộc mạc giản dị và rất vắn tắt. Do vậy sẽ khó mà đạt được sự thống nhất trong cách suy luận khi người ta nghiền ngẫm các bài thơ.
Sự kiện gợi ý cho tôi viết những bài biên khảo này là vì một hôm nổi hứng hỏi một số bạn bè hỏi cho biết con THƯ CƯU trong bài “Quan Quan Thư Cưu” là con gì?Tôi nhận được 7 câu trả lời khác nhau, từ con chim tu hú qua con chim cuốc đến con bồ-cốc.Thậm chí có ông học giả Trung Hoa cho nó là con chim bói cá!Tôi có trình với ông ấy rằng tôi chưa hề đọc một bản văn nào trên thế giới gắn bó chim bói cá với Tình Yêu!
Rồi đến tên những rau cỏ và cây cối, nhiều tên làm tôi sững sờ vì chưa bao giờ nghe đến! Tỉ như cây tích-la, cây phù-tô, rau đường mông, cỏ mã-liêu...dù cố gắng đến đâu tôi cũng không tưởng tượng nổi chúng hình thù ra sao?!
Hơn thế nữa, tôi không rành Hán tự, sự kiện này gây trở ngại cho tôi gấp bội. Mấy người bạn Trung Hoa cũng không giúp ích được gì nhiều cho lắm.
WIKIPEDIA, the free Encyclopedia, là nguồn cung cấp chính của những tài liệu và hình ảnh mà tôi trình bầy trong bài này, tránh cho tôi khỏi phải chạy tới chạy lui đến thư-viện.
Đây là công trình của một cá nhân, tất nhiên sẽ không tránh khỏi sai lầm và sơ sót .Nhờ quí vị độc-giả lượng thứ và chỉ giáo, tôi sẵn sàng ghi nhận và hoan hỉ sửa sai.
Trước khi chấm dứt, xin chân thành cảm tạ nhà xuất bản CÀNH NAM và xin thành kính tri ân Cố nữ sĩ Kim Y Phạm lệ Oanh.
Những bài này phổ biến hạn chế trong giới thân bằng quyến thuộc và bạn hữu cùng diễn đàn sinh viên quân y hiện dịch, chúc mọi người có một vài giờ giải trí lành mạnh.
Kính bút,
TÔN KÀN
Cuối Thu 2012