Không
một ai ở Miền Nam Việt Nam có thể quên được những cay đắng, uất hận nghẹn ngào,
nhục lụy, chết chóc tang thương khi quân dân VNCH bị đồng minh bỏ rơi, đẩy vào
cảnh sụp đổ.
Sau cuộc di tản chiến thuật Tây Nguyên trong tháng B, 1975, thảm hoạ lan rộng
khắp Miền Trung thuộc các quân khu 1, 2 rồi đến quân khu 3. Trong cương vị nhỏ
nhoi của một quân y sĩ Nhảy Dù theo sát bên cạnh đơn vị Dù tác chiến, cá nhân
tôi đă sống trọn vẹn với đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng của cuộc chiến.
Ngày 30 Tháng 4,1975.
Trong một ngày vào tháng Hai 1975 khi Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù (viết tắt TĐ1 ND) với
Thiếu Tá Ngô Tùng Châu làm TĐ Trưởng đang dưỡng quân tại đèo Phước Tượng nằm
trên Quốc Lộ 1 giữa Huế và Đà Nẳng, sau chiến trận ở Thường Đức/ Đại Lộc, Y Sĩ
Thiếu Tá Nhẩy Dù Trinh đích thân đưa BS Bùi Cao Đẳng, người bạn thân đồng môn
đồng khóa của tôi, đến Bộ Chỉ Huy tiểu đoàn thay tôi làm Y Sĩ Trưởng TĐ 1 ND.
Ngay sau khi bàn giao, tôi được chở thẳng đến phi trường Đà Nẳng để trong cùng
ngày, trước Tết 1975, vào Saigon lănh một nhiệm vụ mới, Y Sĩ trưởng Tiểu Đoàn 15
ND. Các Tiểu Đoàn tân lập 12, 14, 15 ND cùng với Đại Đội 4 ND Trinh Sát và Tiểu
Đoàn 4 Pháo Binh ND là thành phần chủ lực cho Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù, dưới quyền chỉ
huy của Trung Tá Lê Minh Ngọc, vừa được thành lập vào đầu năm 1975.
Trên chuyến bay về Saigon, ḷng tôi có nhiều xúc động mâu thuẫn. Dù tôi chỉ phục
vụ TĐ1 ND trong 6 tháng kể từ ngày tŕnh diện làm Y Sĩ trưởng TĐ 1 vào cuối
tháng 7, 1974, đúng vào lúc TĐ1 ND nhảy vào trận chiến ở Đại Lộc/ Thường Đức,
tôi đă có quá nhiều kỷ niệm với đơn vị tác chiến lừng danh hàng đầu của Sư Đoàn
ND.
Trong ngày đầu tiên ở mặt trận, tôi được đích thân người con trai của Cô ruột
tôi là Đại Úy Trần Văn Thể, đại đội trưởng xuất sắc của ĐĐ 11, chỉ bày những căn
bản thực tế ở trận địa như định hướng của ta và địch, phân biệt pháo ta hay pháo
địch, đào hố cá nhân nơi bất cứ dừng quân nào, đi trên dấu giày của người đi
trước để tránh đạp phải ḿn, luôn đội nón sắt và mang áo giáp, ngay cả khi sử
dụng hố tiêu… Làm sao kể cho xiết những ngày dài lội bộ trong rừng sâu, trên
những sườn đồi trơn trợt, lầm lũi quanh co theo chân các binh sĩ, chia nhau từng
điếu thuốc, từng ngụm cà phê pha chung với đế, chuyền nhau từng ca cơm dưới
những cơn mưa tưởng không bao giờ dứt.
Làm sao quên được những tiếng la hét, ra lệnh trong điện đài giữa cấp chỉ huy
Tiểu Đoàn, Đại Đội và Trung Đội trong bước tiến xung phong đánh chiếm mục tiêu,
giữ vững vị trí hay buộc rời bỏ vị trí dước áp lực của địch để rồi lại phản công,
cận chiến và tái chiếm lại mục tiêu tại từng ngọn đồi, trước nhỏ nhưng về sau
càng lớn càng cao. Tại từng ven rừng hay trong rừng rậm, tại từng con suối, bờ
dốc. Trong đêm khuya, hay giữa trưa. Vào sáng sớm hay cuối ngày. Trong mưa,
trong nắng hoặc trong sương mù. V́ làm ǵ có giới hạn thời gian trong trận chiến.
V́ làm ǵ có thời tiết thuận lợi khi xung phong. Và làm ǵ có được sự công bằng
khi địch nằm sẵn trong các công sự trên đồi chờ ta đánh vào. Nhưng ta phải đánh
để dành lại từng tất đất, từng ngọn đồi, để đánh đuổi kẻ xâm lược và bảo vệ miền
đất tự do.
Qua nhiều ngày với TĐ1 ND, tôi có dần kinh nghiệm để phân biệt được tiếng pháo
của ta hay địch, khi nằm dưới hố cá nhân hoặc trong hầm với bộ chỉ huy, ngày
ngày 3 cữ sáng trưa chiều, nh́n lên thấy từng làn chớp sáng của đạn địch chụp
trên các ngọn cây lớn kèm theo tiếng nổ đinh tai với ngàn mảnh đạn và cành lá
văng tứ phía . Đă bao lần tôi cảm thấy bất lực trước những vết thương quá nặng
của thương binh đang chết dần khi chờ đợi tản thương, bèn đành đốt điếu thuốc lá
đưa vào môi cho từng người để rồi đoán chừng cái chết đến khi khói điếu thuốc
thôi bay. Và cũng bao lần tôi đă cúi đầu khóc thầm khi thấy những xác chết, cả
quan lẫn quân, được gói chặt trong poncho nằm từng hàng dài hai bên băi đáp chờ
được bốc đi.
Nhớ và nhớ h́nh ảnh uy nghiêm đầy khí phách của các sĩ quan và bao khuôn mặt non
trẻ nhưng dạn dày phong sương của các binh sĩ tuy đầy kinh nghiệm chiến trường,
nhưng họ vẫn giữ một tâm hồn đơn sơ thật hồn nhiên mà tôi biết được qua những
lần tṛ chuyện, những tâm sự trong đêm dài hay qua những dừng quân ngắn trong
khi cùng nhau vui đùa. Với họ, tôi đă yêu những bản nhạc lính mà trước đây tôi
từng chê là sến. Với họ, tôi đă t́m thấy t́nh đồng đội qua thử thách trong máu
lửa. Với họ, bổn phận và trách nhiệm luôn được gắn liền với 4 chữ “Nhảy Dù Cố
Gắng”. Và với họ, tôi quên hẳn cái chết đằng sau và nguy hiểm chờ đợi phía trước.
Sau chiến thắng ở Đồi 1062 tại Thường Đức, Thiếu tá Nguyễn Văn Phú, Tiểu Đoàn
Phó của TĐ1 ND, được đề cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 15 ND tân lập và trước khi
rời vùng, TTá Phú đặc biệt xin cho tôi được đi theo với Tiểu Đoàn tân lập của
ông. TTá Phú và tôi đă có những giao hữu tốt đẹp trong thời gian ông trực tiếp
chỉ huy cánh phó với 2 ĐĐ đánh thẳng vào trận chiến. Tôi có gởi rượu và thuốc lá
đến cho TTá Phú ở mặt trận, đúng lúc phe ta cần chút chất nóng để đánh đấm cũng
như để ăn mừng chiến thắng. Thêm vào đó, tôi c̣n có cơ duyên giúp cho TTá Phú về
thăm vợ ở Saigon đúng lúc, v́ nhờ lần thăm này mà vợ ông mới có thai lần đầu kể
từ khi lấy chồng vào cuối năm 1968.
Nếu được thuyên chuyển về Saigon, tôi chắc mọi quân nhân của binh chủng ND đều
vui mừng v́ không những đây là hậu cứ của Sư Đoàn ND, xa hẳn nguy hiểm của chiến
trường, mà c̣n là thủ đô, là nơi phồn hoa đô hội với nhiều chốn ăn chơi. Riêng
với tôi, không những tôi được về gần nhà ḿnh ở trong Cư Xá Sĩ Quan Chí Ḥa với
Măng của tôi, mà đây c̣n là một cơ hội quư báu để tôi có dịp gặp lại người tôi
yêu và theo đuổi qua suốt 9 năm, kể từ thời Dự Bị Y Khoa, sau nhiều năm cách trở.
Cuộc thử thách riêng tư này coi vậy cũng không ít gay go, so với cuộc chiến tôi
vừa trải qua ở mặt trận.
Tôi đến tŕnh diện TTá Phú tại bộ chỉ huy TĐ 15 ND ở Trại Cây Mai trong Chợ Lớn
và bắt tay ngay vào nhiệm vụ của ḿnh trong khi TĐ đang chỉnh đốn quân số, quân
trang, huấn luyện…Tôi làm quen với các sĩ quan tác chiến của bộ chỉ huy TĐ như
vị TĐ Phó, sĩ quan trưởng Ban 3 cùng các sĩ quan ĐĐ Trưởng, cũng như làm quen
với các y tá thuộc cấp trong Trung Đội Quân Y của tôi và thiết lập danh sách
tiếp liệu y dược.
V́ Lữ Đoàn 4 ND có nhiệm vụ bảo vệ Thủ Đô, nên vấn đề tiếp liệu quân trang, quân
nhu cho TĐ tác chiến nói chung và tiếp liệu y dược của tôi nói riêng, có phần
nào được ưu tiên. Trong trại quân, tôi đă có những buổi dạy về cấp cứu căn bản ở
chiến trường như cầm máu, băng bó…, về y khoa pḥng ngừa cho bệnh sốt rét, bệnh
tiêu chảy, bệnh hoa liễu cho riêng các y tá của tôi và cho toàn thể binh sỉ của
tiểu đoàn.
Tuy TĐ được lệnh cắm trại và ứng chiến 100%, TTá Phú thường làm ngơ cho tôi vài
ba giờ những khi tôi ghé về nhà thăm Măng của tôi, cũng như thông cảm cho tôi
khi tôi rời trại vào buổi chiều, nhảy lên xe ôm đến thẳng nhà người con gái tôi
yêu, nhất là sau khi nghe tôi kể về cuộc t́nh 9 năm trời lận đận dang dở và ước
muốn hàn gắn nối lại mối t́nh đầu đời của tôi. Người tôi yêu đang học năm cuối
của khoa Chính Trị Kinh Doanh tại Viện Đại Học Đà Lạt.
Với các bạn cùng khóa 16 Trưng Tập Quân Y t́nh nguyện vào Nhảy Dù. H́nh "We Were Once Soldiers" QYND1974, từ trái qua phải: Các Y Sĩ Trung Uư Nguyễn Đức Vượng, Nguyễn Văn Thắng, Bùi Cao Đẳng, Vĩnh Chánh, Nguyễn Thành Liêm, Y Sĩ Thiếu Tá Trần Quư Nhiếp, TĐ Phó TĐ Quân Y Nhảy Dù, Lê Quang Tiến, Nguyễn Tấn Cương, Dược Sĩ Khánh.
Vào chiều Mồng Một Tết, hiên
ngang trong bộ đồ hoa dù và chững chạc trong phong cách, hạnh phúc dồn dập đến
với tôi khi tôi gặp lại nàng tại nhà, sau hơn 3 năm xa cách. Sau đó tôi tiếp tục
ráo riết chinh phục nàng qua những lá thư đậm đà t́nh thương nhớ viết từ trại
quân hay trong khi đi hành quân, hoặc qua những dịp thăm viếng nhà nàng, trổ tài
miệng lưỡi chiếm được cảm t́nh của gia đ́nh họ hàng. Mối t́nh của tôi từ từ
chuyển hướng thuận lợi. Trong bối cảnh chao đảo của chiến sự, càng ngày chúng
tôi càng cảm thấy gần gũi sâu đậm hơn.
Đó cũng là thời gian TĐ15 ND bắt đầu trực tiếp tham dự những cuộc hành quân ở
ṿng đai Biệt Khu Thủ Đô, truy lùng các toán du kích Việt Cộng nổi lên đây đó
hậu thuẫn cho cuộc tiến công của quân CS. Bấy giờ toàn bộ Miền Trung đă mất vào
tay Cộng Quân. Cùng chung một số phận với các đại đơn vị khác của những quân khu
và của Lực Lượng Tổng Trừ Bị như các Lữ Đoàn của Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến,
các Liên Đoàn Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 3 ND, rồi LĐ 2 ND lần lượt chịu những
thiệt hại lớn tại Khánh Dương, rồi Phan Rang. Những chiến thắng thường có của
bao năm trước nay dần được thay thế bởi những tin thất trận, những ră ngủ không
chờ đợi, những triệt thoái vô nguyên lư, những thành phố bỏ ngỏ, hay những trận
đánh bất cân xứng, những vùng vẫy tuyệt vọng kéo theo bao hy sinh đau thương
trong giờ thứ 25 bất chấp lệnh trên, những mất mát sinh mạng quá lớn của cả quân
và dân.
Ở Saigon, t́nh h́nh chính trị lẫn quân sự càng lúc càng đen tối dần. Saigon với
giới nghiêm sau 12 giơ đêm. Saigon với hàng trăm ngàn quân dân cán chính từ bao
tỉnh đàng ngoài, trắng tay chạy lấy mạng liên tục đổ về thành phố để lánh nạn,
mang theo bao câu chuyện thương tâm trên các con đường di tản. Ḍng đời chao đảo,
đầy gian khó. Người đời hoang mang v́ mất ḷng tin ở chính quyền. Có tin nhiều
nhân vật tên tuổi bắt đầu rời nước trong khi một số khác bàn đến chuyện phải ra
đi dù chưa biết đi đâu. Đâu đâu cũng lo tích trử thức ăn chuẩn bị cho một cuộc
tử thủ với viễn ảnh thành phố sẽ tắm trong máu lửa. Ngoài đường người đông hẵn,
ai nấy bước đi vội vả, ánh mắt âu buồn trầm tư. Trong nhà các gia đ́nh ngồi
triền miên trước đài truyền h́nh hay lắng nghe tin tức từ BBC và VOA, bàn chuyện
to nhỏ.
Sau trận đánh vào đơn vị du kích lớn ở giữa Tây Ninh và Saigon, TĐ15 được lệnh
về đóng quân tạm ở vùng Hóc Môn Bà Điểm. Khi TTá Phú và tôi đi t́m gặp nói
chuyện với vị Giám Đốc của hăng dệt Công Thành để ngỏ lời cho TĐ15 ND đóng bộ
chỉ huy tại hảng dệt, một ngạc nhiên đầy thú vị xẩy ra khi ông Giám Đốc buột
miệng hỏi tôi “có phải đây là anh Chánh, con rể ông Thạch không?” Tôi ngất ngây
trả lời “dạ đúng” cùng lúc nhận ra Chú Ngưng, chồng của D́ ruột nàng ở Thủ Đức
mà tôi có dịp gặp trước đây.
Ngày hôm sau, trong sự bất ngờ vui sướng của tôi, Chú Ngưng chở nàng với người
em gái đến thăm tôi ngay tại bộ chỉ huy TĐ. Khi ngồi ăn trưa với bữa cơm dă
chiến, nàng có vẻ “thấm” cái đời sống phong trần lính chiến của tôi, và đă e
thẹn cười khi TTá Phú nói chọc “Bác Sĩ nhỏ con, người yêu BS c̣n nhỏ con hơn,
chắc hai người sẽ đẻ ra những thằn lằn con nhỏ chút xíu!”
Khoảng gần một tuần sau, trong đêm 23 tháng 4, TĐ15 ND được điều động đến bố trí
ở cầu B́nh Triệu, trên trục xa lộ Đại Hàn. Đó cũng là thời gian thị xă Xuân Lộc
vừa mất. Một trận chiến kinh hồn đă diễn ra suốt 13 ngày đêm tại đây. Quân đoàn
4 của CS Bắc Việt gồm các sư đoàn 5, 6, 7 và 34 với hàng trăm chiến xa đại bác
dồn toàn lực tấn công. Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo, với sự hỗ trợ
của LĐ 1 ND, Liên Đoàn 82 Biệt Kích Dù và Không quân lần đầu sử dụng những quả
bom lớn 5 tấn Daisy Cutter, đă chận đứng bước tiến của chúng, gây thiệt hại rất
nặng nề cho quân địch (*). Dù trễ, trận đánh đă gây một tiếng vang lớn xa gần và
khiến những chiến sĩ quanh tôi và chính tôi lên tinh thần và t́m lại được khí
thế hào hùng.
Như những quân nhân bảo vệ Xuân Lộc bị dồn vào chân tường nên đă quyết tâm anh
dũng chiến đấu, chúng tôi vẫn đang c̣n đây, cho đến giờ phút này, sẵn sàng chờ
đến lượt ḿnh vào trận cuối cùng. Và cứ thế, TĐ15 ND bám chốt với lệnh cố thủ
bảo vệ cây cầu cho đến phút cuối, hay người lính cuối cùng.
Trong những ngày kế tiếp, từ sáng sớm cho đến chiều tối, tôi chứng kiến hàng
trăm hàng ngàn xe đủ loại, từ xe đạp cho đến các xe Honda, Lambretta… xe quân
đội lớn nhỏ, xe chở hàng cồng kềnh đầy người và đồ vật, lính tráng thuộc đủ binh
chủng và thường dân, lũ lượt kéo nhau chạy trong hỗn độn từ hướng Biên Ḥa về
Saigon, ngang qua cầu B́nh Triệu. Có lúc tôi tự hỏi làm sao biết được trong đám
người chạy loạn này, ai là bọn VC cố ư len lỏi theo đám đông vào nội thành để
hoạt động nội tuyến!?
TĐ15 ND bung quân làm nhiều nút chặn ở cả phía bên này và bên kia cây cầu. Tôi
nhận thấy TĐ có bố trí 2 xe jeeps có mang đại bác 106 ly chống chiến xa và 2 xe
jeeps khác với trang bị hỏa tiễn Tow. Đa số binh sĩ đều có mang trên lưng loại
rocket M 72 chống tăng, trong vị trí sẵn sàng chống trả cản bước tiến của quân
thù. Trong tư thế Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn, tôi cố chuẩn bị trong khả năng của ḿnh
để cấp cứu và tản thương theo hàng dọc.
Đêm 28 tháng 4, địch pháo kích dữ dội vào trại Hoàng Hoa Thám và căn cứ không
quân Tân Sơn Nhất. Tiếng nổ và những cột lửa bùng cháy trong đêm làm tôi thao
thức tới gần sáng. Lệnh trên vẫn muốn TĐ án binh bất động trong tư thế sẵn sàng
tác chiến. Bộ chỉ huy TĐ cấp tốc dời qua phía bên này cầu.
Sáng ngày 29, tôi nh́n thấy nhiều trực thăng của Mỹ bay trên trời, kể luôn cả
cặp phi cơ phản lực bay ṿng ṿng như thể hộ tống. Xung quanh tôi ai cũng mường
tượng có một chuyện ǵ đang xẩy ra ở Saigon, nhưng chẳng một ai biết đích thực.
Không lẽ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhảy vào lại cuộc chiến? Nếu được như vậy, ít ra
ta cũng c̣n cơ hội củng cố lại, t́nh h́nh rồi sẽ tốt đẹp hơn…Tôi ngây thơ mơ
tưởng hay tự dối ḷng?!
Gần trưa, tôi bước đến nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở bên kia cầu B́nh Triệu. Nhà thờ
mở cửa nhưng không một bóng người. Một ḿnh, tôi quỳ đọc kinh và kính cẩn cầu
nguyện, xin Chúa ban ơn phước cho đơn vị Nhảy Dù của tôi, cho gia đ́nh Măng tôi
và gia đ́nh nàng được b́nh an và nàng đừng rời nước để chúng tôi c̣n gặp lại
nhau. Khi định rời nhà thờ, tôi bỗng nh́n thấychiếc máy điện thoại nằm trong góc
và nẩy ra ư liên lạc với nàng dù biết nhà nàng không có điện thoại. May mắn thay,
từ cuốn niên giám cũ bên cạnh điện thoại, tôi t́m ra số điện thoại của Cụ Mai
Văn An, một Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện ở cùng cao ốc với nhà nàng. Sau khi Cụ
An cho biết là gia đ́nh nàng c̣n nguyên vẹn đây, tôi cám ơn Cụ và nhờ Cụ nhắn
lại với ba của nàng là tôi, tự nhận là con rể, b́nh yên và đang đóng quân ở cầu
B́nh Triệu. Rời khuôn viên nhà thờ, ḷng tôi cảm thấy thanh thản, phó mặc mọi sự
trong tay Chúa an bài.
Đêm 29 Cộng Quân lại pháo kích dữ dội vào Tân Sơn Nhất và trại Hoàng Hoa Thám
của Sư Đoàn Nhẩy Dù. Tín hiệu vô tuyến của Trung Tá Lê Minh Ngọc, Lữ Đoàn Trưởng
LĐ 4 ND hoàn toàn im lặng. Sau đó liên lạc vô tuyến giữa TD15 ND với bộ Tư Lệnh
SĐ ND cũng bị gián đoạn. Tuy nhiên 3 Tiểu Đoàn 12, 14 và 15 ND và Lữ Đoàn Phó
vẫn c̣n giữ liên lạc với nhau.
Nàng đến thăm tôi ngay tại bộ chỉ huy Tiểu Đoàn.
Trong cùng đêm, TĐ15 ND có
đụng nhẹ với các toán đặc công VC ở phía bên cầu. Lại một đêm chập chờn, không
ngủ, bên cạnh những ly cà phê đậm đặc và thuốc lá đốt không ngừng! Mọi người
ngồi bất động, tư lự xung quanh các máy vô tuyến kêu rè rè, thỉnh thoảng mới có
một vài báo cáo từ các đại đội. Không một ai muốn lên tiếng. Người nào trong đầu
cũng đầy những câu hỏi mà chẳng ai có thể trả lời.
Qua sáng ngày Thứ Tư, 30 tháng Tư, 1975, tại bộ chỉ huy TĐ15 ND, tôi đón nhận 4
người thương binh của TĐ. Trong số đó có một thương binh nặng cần phải tản
thương gấp v́ trúng đạn vào bụng. Sau khi tôi chuyền nước biển và viết tờ tản
thương, Ban 3 TĐ cho biết không thể tản thương v́ không liên lạc được với bất cứ
đơn vị quân y nào như BV Đỗ Vinh, Tổng Y Viện Cọng Ḥa. Tôi suy nghĩ đôi chút và
tŕnh bày với TTá Phú ư định tôi sẽ chuyễn thương binh này đến BV dân sự Nguyễn
Văn Học.
Trong khi chúng tôi đứng cách xa người thương binh để bàn tính chuyện tản thương,
anh ta bỗng kêu lên “Xin đừng chuyển tôi đi đâu cả. Để cho tôi chết ở đây…” và
trong tích tắc, anh lấy ngay khẩu súng M16 nằm dọc cạnh anh trên chiếc băng ca,
lên c̣ cái rẹt, quay mũi súng vào ngay dưới cằm. Nhiều tiếng la cản lên nhưng
không kịp. Một tiếng nổ chát tai khiến mọi người bất động, rồi tất cả đổ xô chạy
chạy lại vây quanh băng ca, nhưng chỉ c̣n kịp để thấy anh đang ngáp cá, người
run nhẹ, vết thương mở rộng ở mặt và đầu, máu văng tung tóe. Tôi cầm chặt bàn
tay anh, người y tá lấy tay vuốt mắt anh. Cơ thể anh từ từ dăn ra, đi vào cơi
chết.
Những người có mặt giữ im lặng trong bầu không khí đau thương. Chỉ trong một
khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người lính trẻ đă làm một quyết định nhanh
chóng và dứt khoát, cho thấy khí thế anh hùng bất khuất của một chiến sĩ. Một
cái chết hiên ngang khi cuộc chiến đang dần tàn. Anh đạt ước nguyện chết trong
danh dự với sự hiện diện của đồng đội chung quanh. Toàn thể bộ chỉ huy cùng đứng
nghiêm, cố ngăn ḍng lệ rơi, đồng đưa tay chào vĩnh biệt người lính.
Trong khi sự tự vận bất ngờ của người thương binh đang gây xốn xang đau ḷng cho
bộ chỉ huy tiểu đoàn, từ radio chúng tôi nghe bản tuyên bố đầu hàng của Tổng
Thống Dương Văn Minh được lập lại nhiều lần. Sau một thời gian dài trên vô tuyến,
TTá Phú quay về phía tôi và không một lời giải thích, bảo tôi đi theo với ông.
Tôi ngồi sau lưng TTá Phú trên cùng một chiếc xe jeep, bên cạnh người lính
truyền tin và 2 cận vệ. Người sĩ quan Ban 3 đi xe thứ hai với một toán lính khác.
TĐ Phó ở lại bộ chỉ huy TĐ.
Tôi chẳng biết đoàn xe đang chạy về đâu, cho đến khi xe ngừng trong sân toà Tỉnh
Trưởng Gia Định. Nh́n xung quanh, tôi thấy cả trăm người dân chạy hỗn độn trong
sân, tranh dành vác những bao gạo từ trong toà tỉnh đi ra. TTá Phú đến bên tôi
nói nhẹ “Bác sĩ đi đi!”, rồi ông quay lưng lại tiến vào phía bên trong ṭa tỉnh
với toán binh sĩ của ông. Đó là lần cuối cùng tôi nh́n thấy TTá Phú tại Việt
Nam. Và đó cũng là lần cuối tôi rời vĩnh viễn Tiểu đoàn 15 Nhẩy Dù. Tôi cúi đầu,
trong nghẹn ngào. Sững sờ, trong đê hèn. Bàng hoàng, trong đau đớn. Muốn gào
thét nhưng miệng khô đắng. Muốn khóc nhưng mắt khô v́ tủi nhục. C̣n cái chết?!
Tôi chưa một lần nghỉ đến.
Đang đứng ngơ ngác không biết phải làm ǵ th́ một người đàn ông bước ngang bên
cạnh tôi nói liền “ông cổi bỏ súng xuống và thay đồ nhanh lên”. Như cái máy, tôi
vội chạy đến gần gốc cây lớn, định cổi bỏ tất cả. Nhưng sực nhớ lại, tôi chẳng
có bộ áo quần dân sự nào trong ba lô. Vừa lúc ấy, có một thanh niên chạy ngang
tôi với bao gạo trên vai. Tôi chận anh ta lại và xin bộ áo quân đang mặc trên
người, cùng lúc tôi lục ví đưa tờ 500 đồng cho anh. Không một chút do dự anh ta
thả bao gạo xuống đất, rồi vừa nh́n tôi như thông cảm anh ta cởi áo quần đưa cho
tôi, cho luôn cả đôi dép nhật nữa…
Tôi cổi áo giáp, dây ba chạc có súng, bi đông nước, nón sắt, rồi nhanh chóng cổi
đôi giày lính và bộ quân phục, gom lại để vào dưới gốc cây. Rồi tôi mặc cái áo
màu xanh da trời nhớp nhúa và xỏ cái quần đậm màu, đi nhanh ra phía đường lớn
đón chiếc xe ôm, bảo chở về đường Cao Thắng ở Saigon. Nhà nàng.
Xe ôm chở tôi đi qua nhiều
đoạn đường vắng, mọi nhà đóng cửa. Đây đó là những đống áo quần trận, nón sắt,
áo giáp và súng đạn rải rác bên vệ đường. Có những đoạn đường người đi lại khá
đông hay tụ tập hai bên đường, và có những chiếc xe chở đầy người với mặt mày
sắt máu, hô to khẩu hiệu và phất cờ MTGPMN… Cũng những con đường ấy tôi thường
chạy qua lại, mà sao bây giờ bỗng trở thành xa lạ, mờ ảo như trong một cơi âm.
Những âm thanh la hét, c̣i xe, lùng bùng trong tai tôi. Mắt tôi thấy mọi h́nh
ảnh bên ngoài, nhưng chẳng thấu hiểu; ḷng tôi như tê dại, chẳng thể suy nghĩ ǵ.
Nhớ đến người thương binh tự vận chết sáng hôm nay, tôi ngước nh́n lên trời. Một
màu tang tóc đang chụp xuống thành phố thân yêu.
Xe vào đường Cao Thắng. Nàng là người đầu tiên từ trên balcon nh́n thấy tôi bước
xuống xe ôm. Nàng và các em chạy nhanh xuống mở cổng đón tôi vào. Khi đến thang
lầu, tôi phải vịn vào vai nàng để bước lên từng bước. Thể tôi ră rời và tinh
thần khủng hoảng, tôi thật chẳng hiểu v́ sao ḿnh lại về được đến nhà an toàn.
Hầu như mọi người đều thông cảm và tôn trọng sự yên lặng của ba nàng và của tôi.
Chiều đến, tôi đạp xe về nhà Măng tôi ở cư xá Sĩ Quan Chí Ḥa cho bà cụ yên tâm,
rồi tôi chở Măng tôi đến nhà nàng xin ba mẹ nàng cho phép tôi ở tạm nơi đây, v́
cư xá Sỹ Quan Chí Hoà quá nguy hiểm.
Tối ngày 30 tháng 4, chúng tôi ngồi ở balcon nói chuyện với nhau thật khuya.
Trước đây, trong một lá thư gởi cho nàng, tôi có viết “anh xin làm bóng mát trên
con đường em đi”. Giờ đây, với sự đổi đời, tương lai tôi mù mịt, viễn ảnh những
năm tháng sắp tới là chuổi ngày đen tối, đọa đày và tôi e ngại tôi chẳng c̣n khả
năng làm bóng mát cho em. Nàng ngồi nghe tôi nói nhiều hơn trả lời. V́ có lẽ câu
trả lời đă được quyết định tự lúc nào.
Em yêu dấu, tôi viết bài này mến tặng Em, người đă can cường cứu vớt đời tôi khi
quyết định thành vợ thành chồng với tôi trong một đám cưới quá đơn giản tại nhà
thờ Ḍng Chúa Cứu Thế ở đường Kỳ Đồng. Chỉ 3 ngày sau khi mất nước, lễ cưới được
Cha Laroche của Dồng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây là “đám cươi chạy
tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới. H́nh ảnh kỷ
niệm chỉ có hai tấm h́nh đen trắng. Sau đó với tôi là mấy năm đi tù cải tạo, rồi
đi tù vượt biên, em đă cùng tôi vượt qua bao thử thách, cho đến khi chúng ta đến
bến bờ tự do.
Ba ngày sau 30 Tháng Tư 75: lễ cưới được Cha Laroche của Dồng Chúa Cứu Thế chủ hôn. Với chúng tôi, đây là “đám cươi chạy tang khi mất nước”, diễn ra trong đạm bạc, cô dâu không áo cưới.
Tôi cũng viết bài này để
tưởng nhớ đến người bạn thân, BS Bùi Cao Đẳng, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 1 ND, bạn
đồng môn đồng khóa và đồng binh chủng Quân Y ND với tôi, người được sinh ra vào
ngày 30 tháng 4, năm 1946, cùng tan hàng ră ngũ như tôi vào ngày 30 tháng 4, năm
1975 và đă vĩnh viển ra đi cũng vào ngày 30 tháng 4 năm 2012 tại MD, USA.
Thân tặng các chiến hữu của Tiểu Đoàn 1 ND và của Tiểu Đoàn 15 ND, đă chết trong
băo tố khói lửa hay c̣n sống thầm lặng, hiện đang tự do ở hải ngoại hay ê chề ở
trong nhà tù lớn tại Việt Nam, với những kỷ niệm chinh chiến không thể quên.
“Cho tôi xin lại ngọn đồi, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bờ rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lần chào, chào bao nhiêu người đă khuất
Xin cho tôi được nằm gần, bên ngàn chiến hữu của tôi”
Viết trong tháng Tư, 2013, tại California.
Vĩnh Chánh
(*)Tài liệu tham khảo cho bài viết:
1. Chiến Sử Sư Đoàn Nhảy Dù
2. Battle of Xuan Loc, by Phillip B. Davision
3. Fighting is an art, by George J. Weight
4. Fighting to the end, by Brigadier General Trần Q. Khôi
5. vietnamwar.net
6. sudoan18bobinh.com