Bài này được
chuẩn bị viết cách đây cũng 3-4 tháng. Nhưng bận chuyện này chuyện nọ nên cứ bị
đ́nh hoăn hoài. Hay cũng không bằng hên. Chính nhờ ở việc tŕ hoăn đó, nhiều
chứng liệu rất quan trọng liên tiếp đập vào mắt người viết. Đặc biệt qua những
phim kung fu thời 60-70 của Shaw Brothers, ngày nay được tung ra lại thị trường
dưới dạng DVD.
Đề tài chính của bài này: Chuyện 18 đời vua Hùng Vương có thật hay không? Con số
18 có chính xác chỉ 18 đời vua hay không? Hoặc giả được ghi sai chép trật? Từ 80
đời hoặc 180 đời, chép lộn ra thành 18 đời? Hoặc không có ǵ hết.
Sau đây xin quan sát chuyện 18 đời dưới một góc độ tương đối mới, và sẽ cố gắng
tránh đề cập đến những vấn đề liên hệ, như: trăm con, gốc gác Âu Cơ và Lạc Long
Quân, Hùng Vương, Văn Lang, v.v. Xin để dành cho những dịp khác.
Viết về Họ Hồng Bàng, quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [1] có chép:
Cứ theo tục truyền th́ Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú
phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau
đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế
Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương
Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cơi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đ́nh Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp
nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể
Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quăng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây
Lịch?) và lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lăm, nối ngôi làm vua,
xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm
người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: Ta là ḍng dơi Long-quân, nhà
ngươi ḍng dơi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con
th́ nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, c̣n 50 ta đem xuống bể Nam Hải.
Sau đó vẫn theo truyền thuyết Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng làm
vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Hùng Vương cai trị nước Văn Lang theo lối
cha truyền con nối đến 18 đời, th́ bị Thục Phán, từ biên cương phía Bắc, đánh
bại. Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Đó là
năm 258 trước Công Nguyên (TCN).
Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN.
Tổng cộng 2622 năm. Nếu chia ra 18 đời th́ mỗi một đời vua kéo dài trung b́nh
146 năm. Một chuyện hết sức hoang đường, nếu nhớ: (i) Các triều đại vua chúa bên
Tàu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo dài trung b́nh khoảng 10-20 năm, như Châu
Trang Vương (696-682 TCN), 14 năm chẳng hạn; và (ii) Đời sống con người thời đó
trung b́nh chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Hơn thời sống trong hang động chừng 20 năm.
Đại Việt Sử Kư Toàn Thư [2], xuất hiện khoảng 1479 dưới đời vua Lê Thánh Tôn,
chính là bộ sử đầu tiên đưa truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân, rồi Hùng Vương
vào sử sách nước Việt. Trước thời Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, có 2 bộ sử nữa, nhưng
hoàn toàn không đề cập đến truyền thuyết Lạc Long Quân. Đó là Đại Việt Sử Kư của
Lê Văn Hưu, xuất hiện năm 1272, và Đại Việt Sử Lược với tác giả khuyết danh, ra
đời trong khoảng cuối thế kỷ 14 dưới đời nhà Trần. Bộ sách của Lê Văn Hưu, tuy
thất truyền từ lâu nhưng phần lớn được Ngô Sĩ Liên xử dụng khi soạn Đại Việt Sử
Kư Toàn Thư. Đại Việt Sử Lược thất lạc nhiều năm, nhưng về sau được một vị quan
nhà Thanh t́m được ở một thư khố bên Tàu.
Chuyện tích vua Hùng với 18 đời, cùng những truyền tích khác như: Phù Đổng Thiên
Vương, Sơn Tinh Thủy Tinh,..., thật ra được Ngô Sĩ Liên nhập vào bộ Đại Việt Sử
Kư Toàn Thư, từ những sách thuật chuyện u linh hoang đường như: Việt Điện U Linh
Tập , và Lĩnh Nam Chích Quái , xuất hiện trong khoảng thế kỷ 14. Đặc biệt Lĩnh
Nam Chích Quái , do tiến sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần
thoại ở khu vực phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam), tức phía Nam của nước Sở
ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa (722-221 TCN).
Trở lại với năm đầu và năm cuối của thời Hồng Bàng. Trần Trọng Kim dùng thẳng
tài liệu của Đại Việt Sử Kư Toàn Thư (2879-258 TCN) - nhưng đặt thêm một dấu hỏi
(?) sau năm khởi đầu: 2879 TCN. Bởi thật ra, chính Ngô Sĩ Liên cũng chỉ đề cập
đến 18 đời ở bên ngoài phần Ngoại Kỷ (từ thời Hồng Bàng đến Ngô sứ quân). Đặc
biệt Ngô Sĩ Liên có chép lời bàn ở cuối chương về thời Hồng Bàng [2], bày tỏ mối
ngờ vực về truyền thuyết Âu Cơ: Cái thuyết nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu
không phải là thế . C̣n Sơn Tinh Thủy Tinh th́ ông cho: rất là quái đản, tin
sách chẳng bằng không có sách, hăy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi
ngờ thôi .
Ngô Sĩ Liên đă đoán rất đúng: Khi nhét các truyền tích vào cổ sử, ông đă tiếp
tục gieo nghi ngờ và thắc mắc với mọi người Việt từ lúc đó cho măi đến ngày nay.
Mặc dù đă căn dặn kỹ: tin sách chẳng bằng không có sách (tận tín thư bất như vô
thư) [7].
Măi cho đến cuối thế kỷ 20, nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đă đưa đến
một số điều chỉnh về năm tháng. Trong đó niên đại kết thúc đời Hồng Bàng (và bắt
đầu thời Thục Phán) được dời về năm 208 TCN (xem ghi chú trong [3]). Đặc biệt,
gần đây, họ phối hợp những luận cứ dựa trên các khám phá khảo cổ học về thời đại
văn minh Đông Sơn với một đoạn ngắn của quyển Đại Việt Sử Lược [2], thất truyền
lâu năm nhưng về sau t́m lại được ở thời Măn Thanh (bên Tàu):
Đền đời Trang Vương nhà Châu [4] (696-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng
ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt
quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối kết
nút. Truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương .
Xin chú ư đến một vài điểm:
(i) Đại Việt Sử Lược vẫn cho thời đại Hùng Vương kéo dài 18 đời.
(ii) Không có ghi chi tiết Cha Mẹ của Hùng Vương. Tức giấy khai sinh của Hùng
Vương không có tên Lạc Long Quân và Âu Cơ.
(iii) Vua Hùng thứ nhất khởi đầu sự nghiệp vào khoảng năm 688 TCN, và kết thúc
vào năm 208 TCN. B́nh quân 26 năm cho mỗi một đời vua.
(iv) Chính sự dùng dây kết nút để... truyền thông với nhau. Tức không có chữ
viết. Không có sử sách ǵ hết. Tức không giống như văn minh Hoa Hạ ở khu vực
b́nh nguyên sông Hoàng Hà.
Tóm tắt:
- Theo Đại Việt Sử Kư Toàn Thư, 18 đời vua Hùng: 2879-258 TCN
- Theo nhiều tài liệu sử hiện nay, dựa trên tài liệu khai quật và Đại Việt Sử
Lược, 18 đời Hùng Vương: khoảng 688-208 TCN
Thế nhưng vẫn có nhiều người hăy c̣n... ấm ức không đồng ư, bởi làm như vậy số
năm văn hiến của nước Việt sẽ bị rút xuống c̣n dưới 3000 năm, thay v́ 4000 năm
văn hiến như xưa. (Xem [8]). Tức trong khi văn minh Hoa Hạ đă nở rộ, đời sống
con người ở nước Nam hăy c̣n khá... man di.
Sau đây chúng ta thử nh́n vấn đề dưới một góc độ khác. Một góc nh́n chịu ảnh
hưởng của toán học. Trong đó có số âm, số dương, số thực và ... số ảo. Có hệ
thống đếm số 10, hệ thống đếm số 5 (như dân Khmer ở cổ thời [11]), hệ thống đếm
số 2 (như trong máy điện toán). Cũng như ư niệm về tập hợp.
Những con số 18
Để ư con số 18 hầu hết trên toàn thế giới ngày nay thường được dùng để định mức
tuổi trưởng thành của người công dân. Tuổi công dân. Bất cứ mọi dân tộc nào trên
thế giới cũng biết đến số 18 này.
Đối với văn hoá miền Hoa Nam, nhất là đối với người Quảng Đông và Hongkong, số
18 là một con số hên. Phát âm số 18 theo kiểu Quảng Đông: /xập bát/ (mười tám,
thập bát). Âm điệu rất giống với /xật phát/ (tất phát), mang nghĩa ‘thế nào cũng
phát tài’.
Số 18 cho tuổi công dân, và số hên của người Quảng Đông không có liên hệ ǵ hết
đối với 18 đời vua Hùng. Tuy nhiên, nếu nh́n trở lại cội nguồn của lịch sử nước
Tàu chúng ta sẽ thấy ngay con số 18 đă xuất hiện khi người Hoa bắt đầu viết sử
sách. Trước hết họ thêu dệt câu chuyện ông Bàn Cổ, thủy tổ loài người, tức dân
Trung Quốc.
‘Theo tục truyền’, thuở ban đầu trời đất lẫn lộn với nhau thành một khối, rất
hỗn độn. Vũ trụ là một cái trứng khổng lồ chứa Bàn Cổ trong đó [13]. Bàn Cổ ngủ
trong trứng đến ‘18 ngàn’ năm, rồi mới thức dậy. Thấy ngột ngạt, Bàn Cổ mới lấy
cây ŕu rộng đập vỡ vỏ trứng. Ánh sáng và khí thoát lên trên tạo thành Trời, và
phần lạnh và đục như chất bùn lắng xuống phía dưới tạo thành Đất. Bàn Cổ đứng
chính giữa, đầu đội trời chân đạp đất. Cả ba thực thể đó đều tăng trưởng với mức
độ mỗi ngày dài thêm một trượng, tức chừng 3.3 thước (mét) tây. Rồi 18 ngàn năm
nữa trôi qua, Bàn Cổ vẫn đứng chính giữa, ngăn cách Trời và Đất. Đến lúc Bàn Cổ
mất, chiều cao của Bàn Cổ đă đạt đến 9 triệu lí (xin để ư 18 chia cho 2 ra 9).
Hơi thở Bàn Cổ trở thành gió và mây, tiếng thành sấm. Một con mắt trở thành mặt
trời, con mắt kia thành mặt trăng. Thân và tay chân biến thành 5 ngọn núi lớn.
Máu thành sông biển. Râu tóc trở nên bao nhiêu ngôi sao và tinh tú ở trên trời.
Vân vân và vân vân.
Xin để ư, con số 18 trong chuyện Bàn Cổ có vẻ thuần nhất chỉ một chuỗi tŕnh
liên tục, một thứ chu kỳ [4]. Những sự kiện hay sự vật trong đó mang cùng chung
một số đặc tính. Trong 18 ngàn năm đầu: Bàn Cổ ch́m trong giấc ngủ. Một liên tục:
Ngủ. Liên tục kế tiếp: Thức, trong thế đứng, thế chổng, đầu đội trời chân đạp
đất. ‘Liên tục’ này cũng kéo dài 18 ngàn năm. Cuối cùng, khi kết thúc liên tục ‘thức’,
hay chu kỳ ‘thức’, Bàn Cổ cao được 9 triệu lí (1 lí = 600 thước). Con số 9 thật
ra chỉ là 18 chia cho 2.
Sau Bàn Cổ một ít lâu, xă hội của chủng Hoa nguyên thuỷ bên sông Hoàng Hà có 3
vị vua trứ danh (Tam Hoàng), và 5 đế nổi tiếng (Ngũ Đế). Tuy nhiên có chừng 5-8
giả thiết khác nhau về tên họ của những vị này. Danh sách Tam Hoàng đáng kể và
thường thấy nhất chính là: Phục Hi, Thần Nông và Hoàng Đế [14] [18]. Bà Nữ Oa
cũng có tên trong một số danh sách Tam Hoàng. Trong số các danh sách Ngũ Đế, một
số có tên vua Nghiêu và vua Thuấn. Theo thiển ư, những vị Tam Hoàng – Ngũ Đế
kiểu này chỉ mang tính chất biểu tượng cho khối chủng tộc. Thí dụ: Vua Thần Nông
chỉ mang nghĩa: dân Hoa thời đó bắt đầu sinh sống bằng nghề Nông. Bà Nữ Oa đội
đá vá Trời: Hoa chủng thuở xa xưa mang Mẫu Hệ.
Chỉ có vua Nghiêu (Yao) và Thuấn (Shun) là có vẻ ‘bán-huyền-thoại’ [12]. Thuấn
sau cùng truyền ngôi lại cho ông Yũ (Vũ), khởi đầu triều đại đầu tiên của nước
Tàu: nhà HẠ. Nhà Hạ kéo dài được 18 đời với vua cuối là Kiệt. Vua Kiệt là một
bạo chúa, ham mê trụy lạc, nên bị Thành Thang hội chư hầu lật đổ và thiết lập
nên nhà Thang hay Thương (c̣n gọi Ân (Yin), 1070-1027 trước Công Nguyên). Cho
đến nay vẫn chưa có tài liệu khai quật để minh chứng hiện diện của nhà Hạ. Nhưng
có rất nhiều chứng tích về nhà Thương [9] [12] [17].
Một lần nữa, con số 18 xuất hiện chỉ 18 đời vua nhà Hạ. Có thể để ư:
- Sử gia Trung quốc biết rất ít về nhà Hạ, ngoài những truyền tích trong dân
gian. Đặc biệt vua Kiệt v́ mê nàng Muội Hỷ nên mất nước.
- 18 đời vua Hạ một lần nữa lại chỉ một liên tục có cùng chung một số đặc tính.
Đó là chu kỳ đời nhà Hạ. Chi tiết không được rơ!
- Số 18 do đó có thể hàm ư một ẩn số. Một ẩn số khá hoa mỹ trong ngôn ngữ và văn
minh Hoa Hạ, thay v́ ‘x’ như trong toán học ngày nay.
Xin quan sát tiếp.
Vào một dịp t́nh cờ, trong những ngày nghỉ nhân dịp Giáng Sinh và đầu năm 2005,
tại hạ t́m ra được một tiệm chuyên cho mướn đĩa DVD chuyên về phim Hongkong,
phim Hàn quốc, nhất là loại kiếm hiệp trữ t́nh. Loạt phim kiếm hiệp thuộc thời
vàng son điện ảnh Hongkong, của Shaw Brothers (Run Run Shaw và Runme Shaw), vào
thập niên 1960-70 được cho in lại vào dạng DVD. Thế là liên tiếp nhiều hôm, tại
hạ cho đĩa DVD vào máy rồi ngồi xem lại những phim kungfu cũ do các tài tử gạo
cội thời đó thủ diễn. Như: Trần Quan Đại, La Liệt, Trần Tinh, Vương Yũ, Khương
Đại Vệ (David Chiang), Phó Thanh, … Phải nh́n nhận phim kiếm hiệp Hongkong thời
đó thật hay. Hay đến nỗi nhà đạo diễn lừng danh Mỹ Quentin Tarantino gần đây đă
làm 2 phim Kill Bill với Uma Thurman, để vinh danh thời vàng son của điện ảnh
Hương cảng.
Liên tiếp hai phim Hongkong đă xử dụng ư niệm ‘18’ để chỉ một liên tục, một chu
kỳ. Thứ nhất, bộ phim 3 điă DVD về ‘Xạ Điêu Anh Hùng Truyện’ phóng tác theo tiểu
thuyết của Kim Dung, với tài tử đoản mệnh Phó Thanh trong vai Quách Tĩnh. Và thứ
hai, phim ‘Thế vơ Bọ Ngựa’ (Shaolin Mantis) do David Chiang (Khương Đại Vệ, Kang
Da Wei) đóng vai chính.
Ở phim ‘Xạ Điêu Anh Hùng’, đoạn Bắc Cái bị rắn của Tây Độc cắn, tàn phế vơ công.
Bắc Cái Hồng Thất Công mới truyền ngôi Bang chủ Cái Bang cho Hoàng Dung. Lúc
truyền chức vụ Bang chủ, Hồng Thất Công có nói với Hoàng Dung, đại khái:’Bây giờ
thầy xin truyền lại cho con chức vụ Bang Chủ của Cái Bang. Từ khi Bang ta được
thành lập, đến đời của Thầy là đời thứ 18,…’
Cũng lại con số 18, trong một câu chuyện hoàn toàn hư cấu. Một con số ảo, trong
một bối cảnh với nhân vật ảo. Nhưng trên một nền tảng văn minh…có thật và thứ
thiệt. Con số 18 ở đây lại đánh dấu kết thúc 1 chu kỳ, một liên tục trong chiều
thời gian. Chu kỳ đó là một chu kỳ của các Bang Chủ thuộc nam phái. Nó kết thúc
bởi Hoàng Dung là một người nữ, con gái của Đông Tà Hoàng Dược Sư, trở thành một
Bang chủ mới.
Phim thứ hai kế tiếp, cũng dùng con số 18, đă cuối cùng thuyết phục được tại hạ
và đem lại hứng khởi viết nên bài này. Đó là phim ‘Thế vơ Bọ Ngựa Thiếu Lâm’ (Shaolin
Mantis) do Khương Đại Vệ thủ vai chính. Chuyện phim nói về vụ người Hán lúc nào
cũng lén lút tụ tập lo bài Măn phục Minh. Vua Măn Thanh ngày nọ mới phái đại
hiệp Wai Fong (David Chiang) văn vơ toàn tài đi truy tầm một đám phục quốc lợi
hại ở miền Giang Nam. Wai Fong phải trá h́nh làm một ông đồ ngốc nghếch, để len
vào một gia đ́nh vọng tộc, có tinh thần phục quốc cao, với vơ nghệ rất siêu quần.
Gia đ́nh ấy có một người con gái rất khoái vơ nhưng không chịu học chữ. Thầy đồ
nào đến nhà dạy dỗ cho cô ta thường chỉ chịu được năm bảy ngày, rồi cũng phải
cuốn gói chuồn êm. Lúc Wai Fong đến thị trấn, y gặp thị đang đánh đập và đuổi
ông Thầy đồ già bởi không được vừa ư với lối dạy của ông. Thấy Wai Fong đẹp trai,
nho nhă, cô ta mới mời dọn về nhà để làm lăo sư mới cho cô. Trước khi cho việc
thầy Wai Fong, cô này báo động trước, đại khái: ‘Anh có chắc đủ sức làm thầy tôi
không. Anh coi chừng rồi cũng như ông thầy già, ban năy bị tôi đuổi việc. Anh
biết hôn, ông Thầy đó là ông Thầy thứ 18 rồi đó.’
Thật quá rơ: số 18 được dùng để chỉ một tập hợp, một liên tục, hay chu kỳ. Trong
trường hợp phim ‘Quyền Bọ ngựa’ nói trên, nó chỉ một chu kỳ hay tập hợp những
ông thầy đồ già, có mạng ngũ hành không khắc được cô học tṛ ngỗ nghịch hư hỏng
kia. ‘Liên tục’ đó sẽ được khép kín lại sau khi thầy Wai Fong nhận việc. Bởi
thầy Wai Fong sẽ mở màn cho một ‘liên tục’ mới. Một liên tục, tràn đầy những ca
khúc t́nh yêu, dẫn đến t́nh vợ chồng giữa cô học tṛ tinh ư và ông thầy Wai
Fong.
Ta để ư, trong tất cả các trường hợp dùng 18 - từ 18 đời vua nhà Hạ cho đến 18
ông thầy không trị được học tṛ – danh tánh và chi tiết về 18 vị đó hoàn toàn
mang tính cách… không quan trọng. Không thành vấn đề. Người phát ngôn ra con số
18 đó có vẻ chỉ muốn chúng ta biết ‘đó là một con số nào đó’, có thể lớn hơn 2,
hoặc nhiều hơn 3. Và cũng có thể là một con số Không (0). Số chính xác không
quan trọng. Bởi thực chất của nó chẳng có quan trọng. Nhưng quan trọng hơn chỉ ở
chỗ những phần tử trong ‘tập hợp’ đó mang cùng một số đặc tính chung. Xin được
lập lại, số 18 trong văn minh Hoa Hạ có vẻ mang chung một ư nghĩa như ‘ẩn số X’
trong toán học. X= 0,1, 2, 3,…. Nhưng kư hiệu ‘18’ đó có vẻ hoa mỹ hơn, chải
chuốt hơn X. Và cũng có ư của một số bán xác định hay bất chợt, tương đương với
N trong toán học. Với ngụ ư: không cần t́m hiểu rơ chi tiết về đặc tính của
những nhân vật mang số từ 1 đến 18 làm ǵ. Chỉ cần hiểu đó là một tập hợp, một
liên tục, chu kỳ, hay chuỗi tŕnh kín, nay đă hoàn toàn kết thúc.
Bội số của 18 và 9
Bất cứ ai cũng đều biết rơ 18 chính là: 9 nhân cho 2. Khoảng cách từ mặt đất đến
trời xanh, theo ư niệm người Hoa thời cổ đại, bằng chiều cao của Bàn Cổ, tức 9
triệu lư (= 4600000 km). Cũng dùng con số 9.
Rất nhiều số đếm của văn minh Trung quốc vẫn dùng đến 9 hoặc 18, và bội số của
chúng.
Về vơ nghệ, ta có ‘thập bát ban vơ nghệ’ tức 18 kiểu đánh vơ khác nhau. Gồm:
đánh côn, đi quyền, v.v. Nhưng thật sự ít khi thấy sách vở Tàu ghi lại đầy đủ 18
lối đánh vơ khác nhau đó.
Nếu đọc truyện Tàu xưa, ta cũng thường thấy: ‘tam thập lục kế yĩ đào vi thượng’:
trong 36 kế, kế chạy trốn là hay nhất. 36 chính là = 18 nhân 2. Cũng ít thấy ai
cho biết chi tiết của từng mưu kế trong con số 36 kế đó. Chùa Thiếu Lâm cũng vậy.
Nhiều phim kungfu hư cấu cho thấy phái Thiếu Lâm có đến 36 pḥng luyện vơ. Mỗi
pḥng một kiểu luyện khác nhau. Nhưng cũng ít khi quay cho thấy đầy đủ 36 pḥng
đó.
Đọc Tây Du Kư, ta để ư hai nhân vật có bùa phép thần thông quảng đại nhất. Người
thứ nhất là Tôn Ngộ Không, tức Tề Thiên Đại Thánh. Người thứ hai, Dương Tiễn tức
Nhị Lang. Cả hai đều có đến 72 thứ phép tắc thần tiên. Thường gọi: thất thập nhị
huyền công. Xin kể vài thứ phép. Tôn Ngộ Không có thể bứt một cọng tóc thổi phù
một cái. Presto! Cọng tóc biến ngay ra thành một Clone Tôn Ngộ Không khác, với
khả năng bùa phép, vơ nghệ y hệt như Tôn Ngộ Không thiệt. Tôn Ngộ Không cũng có
thể uốn người nhảy lên không trung một cái, lập tức biến thành con chim. Nhị
Lang Dương Tiễn cũng vậy. Cũng đầy đủ 72 thứ bùa phép y như Tôn Ngộ Không. Nhưng
có lẽ v́ y thuộc loại quan ở trên Trời, đi đâu cũng có chó theo, nên tác giả cho
y thuộc phe chánh đạo, phải trên rơ phe tà đạo đại diện bằng Tề Thiên. Cũng có
thể y mang mạng Kim, phía Tây, nên có vẻ trên cơ hơn một chút và khắc được Tôn
Ngộ Không, mạng Thổ, phía Đông. Tuy cả hai cùng có ‘thất thập nhị huyền công’
như nhau.
Nhưng đặc biệt để ư, tác giả Ngô Thừa Ân không bao giờ liệt kê đầy đủ 72 thứ
phép thần thông đó gồm những thứ phép nào. Ta chỉ biết 72 là một bội số của 18,
và tất nhiên của 9: 72= 18 x 4; 72= 9 x 8.
Như vậy có thể tóm tắt: Trong văn minh người Hoa, họ rất thích dùng những con số
như 9, 18, 36, 72, 108 (108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong ‘Thủy Hử’),… Tất cả
đều là bội số của 18, đặc biệt cũng là bội số con số 9.
Thế tại sao họ lại thích con số 9? Có nhiều lư do, và xin để lư do chính qua
phần sau. Lư do thông thường: số 9 là số dùng để chỉ vua chúa.
Người Trung quốc từ thời xa xưa đă dành số lẻ để chỉ đàn ông, và số chẵn chỉ đàn
bà. Con số 9 tượng trưng cho người đàn ông có uy quyền nhất. Số 9 do đó dùng để
chỉ các bậc đế vương.
Theo chuyện kể của Ngọc Phương [10], ‘những toà điện trong Tử Cấm Thành ở Bắc
Kinh gồm 9900 gian nhà. Các tháp canh ở bốn góc cung điện đều có 9 xà và 18 cột.
C̣n trên các bức từơng b́nh phong có trạm khắc 9 con rồng…
Một ví dụ điển h́nh nhất về con số 9 huyền thoại là bệ thờ ở Thiên Đàn Bắc Kinh
– nơi các hoàng đế thời Minh và Thanh hàng năm thường tế Trời để cầu cho quốc
thái dân an. Bệ thờ có h́nh tṛn, xây thành 3 cấp. Mặt trên của bệ thờ ghép bằng
9 ṿng đá đồng tâm. Ṿng đá trong cùng gồm 9 phiến đá h́nh quạt, ṿng thứ hai
gồm 18 phiến (9x2), ṿng thứ ba 27 phiến (9x3), … cho đến ṿng ngoài cùng, ṿng
thứ 9 gồm 81 phiến (9x9) ghép lại.’
Hệ số đếm dùng
con số 9
Giải đáp số 9 là số của vua chúa, tuy tiến thêm 1 bước nhưng vẫn chưa giải thích
được toàn diện tại sao người Hoa từ xưa vẫn ưa dùng các bội số của 9, như 36,
72, 108, và nhất là 18. Mặc dù rằng chúng ta đă khá đủ tư liệu, kể trên, để
chứng minh rằng: số 18 trong ‘18 đời vua Hùng’ chỉ là một con số quy về ư niệm
của một liên tục, một châu ḱ, một tập hợp kín.
Đóng góp quan trọng thứ hai của bài này chính là giả thuyết: Người Hoa nguyên
thủy, kể luôn cả chủng Yueh (Việt) ở phía Nam sông Dương Tử, vào thuở khai
thiên lập địa, tạo dựng nên xă hội, đă dùng hệ thống đếm dựa trên con số 9, chứ
không phải con số 10 theo hệ thống thập phân hiện nay. Phát hiện này, mặc dù c̣n
trong dạng giả thuyết, có lẽ từ xưa đến nay chưa thấy bàn đến trong sách vở. Và
có lẽ chính người Hoa cũng không ngờ tới chuyện này.
Thế nào là hệ thống đếm số 9? Muốn hiểu hệ thống đếm số 9 ta thử nhờ một em bé
đếm thử từ 1 đến 20. Em đếm, bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới:
1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8 – 9 rồi 10. Tức con số lớn nhất trong hệ thống
thập phân. Sau đó, em đếm tiếp: 10+1, em gọi tắt ‘mười một’, rồi 10+2, gọi tắt
12, 10+3, gọi tắt 13,… tuốt đến 19 (tức 10+9). Sau đó, em đếm 10+10. Nhưng
10+10, em nghĩ có vẻ bất tiện, nên thế bằng: 2 lần 10, gọi tắt thành ‘hai mười’,
tức ‘hai mươi=20’. Tiếp theo đó: 20+1, tức 21; 20+2, tức 22, v.v.
Như đă phân tích kỹ trong bài viết về hệ thống đếm số của người Mường (hệ 9)
[11], ở thời cổ đại có nhiều hệ thống đếm số khác nhau. Thí dụ, người Khờ-Me tức
Cam Bốt ngày nay, dùng hệ thống đếm số 5. Tức khi đếm tới số 5 là hết. Họ phải
đếm lại dùng số 1 ban đầu. Nghĩa là họ xem số 6 như là 5+1. Tiếp tục: 7=5+2,…
Phát âm về số đếm trong tiếng Cam Bốt, từ 1-12, xin liệt kê như sau:
0 = son {đọc như: /sohn/} => không
1 = múay /mooeh/ => một
2 = bpii /bpee/ => hai
3 = bey /bay/ => ba
4 = buan /booan/ => bốn
5 = bram /blam/ => năm => Số lớn nhất trong hệ 5.
Muốn đếm tiếp, phải dùng đến số 5, rồi cộng thêm:
6 = bram-múay /blam-mooeh/ => sáu => sáu (6)= bram (5)+muay (1): bram-muay
7 = bram-bpil /bram-bpee/ => bảy=> bảy (7)= bram (5)+bpil (2): bram-bpil
8 = bram-bey /bram-bay/ => tám => 8= bram (5)+bey (3)
9 = bram-búan /bram-booan/ => chín => 9= bram (5)+buan (4)
10 = dop /dup/ => mười => một tên gọi mới có nghĩa 2x5
11 = dop-muay /dup-mooeh/ => 11= dop (10)+muay (1), mười một
12 = dop-bpii /dup-bpie/ => 12= dop (10)+bpie (2), mười hai
……………………
16 = dop-brammuay /dup-blammơoeh/ => 16= dop (10)+bram(5)+muay(1)
Như vậy, đối với hệ đếm số 5, số 5 là số lớn nhất. Hệ đếm này dựa vào lối đếm
dùng bàn tay 5 ngón.
Đối với hệ thống đếm số 10 như toàn cầu xử dụng hiện nay, số 10 là số lớn nhất.
Hệ đếm số 10 xử dụng cả 10 ngón tay.
Đối với hệ thống đếm số 9, số 9 là số lớn nhất. Trong hệ đếm đó, số 9 lớn nhất
đă được dùng để chỉ vua chúa. Hệ thống đếm số 9, theo thiển ư, đă dành 1 ngón
tay để chỉ số không (0). C̣n lại 9 ngón kia dành cho số đếm từ 1 đến 9.
Hệ thống đếm số 9 vận hành ra sao? Như thường, đếm từ 1 đến 9. Số 10 đă được đếm
như 9+1. Mười một: 9+2, v.v. cho đến 17= 9+8.
Rồi 18 sẽ được gọi như= 2 lần 9. Tức 29. Số 19 sẽ trở thành ‘2 lần 9 + 1’.
Đếm tuốt đến 27 ta sẽ đếm theo hệ thống 9 thành 39, tức 3 lần 9. Ba lần chin =
39 = 3x9 = 27. Đúng là những con số B́nh Nguyên Lộc [5] đă nêu lên thắc mắc
không hiểu tại sao người Mường lại đếm số khác với Việt. Việt gọi số đếm 27,
trong khi Mường gọi đó 39. Số 39 của Mường mang nghĩa 3 lần 9, thuộc hệ thống
đếm số 9. Việt 27 = Mường 39. Hai mươi bảy bằng vơí ba nhân cho chin lần, 27=
3x9. Mường đọc ‘ba chỉn’, tức 39. Muốn biết rơ về người Mường, và nếp sống cùng
văn hoá của họ xin xem tác phẩm của Jeanne Cuisinier về xă hội Mường xuất bản
vào năm 1946 [15].
Rất có thể người Hoa ở thời mới tạo dựng xă hội đă dùng hệ thống đếm 9, bởi
những lư do sau:
(i) Họ đă dùng số 9 để chỉ người đàn ông có quyền lực nhất. Số 9 là số lớn nhất
trong hệ thống đếm số 9. Chứ không phải trong hệ thống đếm số 10 như Ngọc Phương
đă tŕnh bày [10].
(ii) Vào thời cổ đại, thật cổ, văn minh Trung Đông chưa truyền đến Trung Quốc.
Người Hoa chắc chắn phải có một hệ thống đếm hơi khác với hệ đếm số 10, của
Trung Đông. Mặc dù rằng có thể đến đời nhà Thương, hoặc đầu đời nhà Châu (khoảng
năm 1000 trước Công Nguyên), hệ thống đếm số 10 đă du nhập đến Khu vực sông
Hoàng Hà.
(iii) Người Hoa vẫn thích dùng bội số của 9, như 18, 36, 72,… Y như những người
quen hệ thống 10, sẽ thích dùng: 10, 20, 30, 40…
(iv) Người Mường cho đến giữa thế kỷ 20 vẫn c̣n dùng hệ thống đếm số 9, họ đă
mang theo khi di cư về phía Nam. Người Mường là ai? Đại khái họ cũng cùng chung
chủng Yueh (Việt), nhưng thuộc chi Thái. Khi xưa họ tập trung ở vùng phía Nam
sông Dương Tử, đặc biệt tại nước Ba và Thục, giáp giới với nhà Tây Châu (770-476
TCN). Sau khi nước Thục bị nhà Tần dứt điểm, họ thiên cư về Nam, và gia nhập
cộng đồng Tây Âu ở khu vực Quảng Tây, Quí Châu, ngày nay. Bởi những ǵ họ c̣n
giữ, rất có khả năng đă được chia xẻ qua lại với Hoa chủng bên nước Châu ngày
trước. Nên nếu họ c̣n giữ hệ thống đếm số 9, người Hoa thứ thiệt tại nước Châu
ngày xưa thật xưa chắc cũng đă dùng hệ đếm số 9 đó.
(v) Nếu ở cổ thời, lúc văn minh phương Tây chưa mang sang hệ đếm số 10, rất có
khả năng cả hai vùng Hoa Nam và Hoa Bắc đều xử dụng và quen thuộc với hệ đếm
theo số 9. Từ đó họ sẽ quen dùng những bội số như 18, 24, 36, 72, v.v.
(vi) 18 đời vua nhà Hạ, triều đại khởi thủy của nước Tàu, đă xử dụng con số 18
theo thói quen của hệ thống đếm số 9 đó. Và từ đó việc vay mượn ư niệm triều đại
Hồng Bàng của Tàu đưa vào truyền thuyết dựng nước ở phía Nam, chắc cũng không có
ǵ lạ cả.
Tóm tắt
Bài này thử nh́n vấn đề ’18 đời vua Hùng’ dưới góc độ toán học và văn minh Hoa
Hạ. Kết quả cho thấy con số 18 thật ra chỉ là một con số bất chợt, không liên hệ
đến chi tiết lịch sử.
Số 18, trong văn hoá Trung quốc, thông thường được dùng để chỉ một chu kỳ. Hoặc
một liên tục, một tập hợp, mà những phần tử trong tập hợp đó có cùng chung một
số đặc tính. Ở một mặt khác, nó là một con số che lấp những thiếu thốn về hiểu
biết và chi tiết về tính chất của từng phần tử trong tập hợp đó. Nói một cách
khác, số 18 chỉ là một lối nói cho văn vẻ, dùng toán số (2x9= 18) của giới sĩ
phu Trung quốc. Có lẽ với mục đích… để hù những người không biết chữ, và cũng để
cho bài viết, bài văn cho được trôi chảy, không có những điều ‘không biết’. Số
18 là một con số dùng để…che mắt, lấp loát những cái không biết.
Số 18 hoặc 36, 72, hay về sau ‘Bách’ tức 100, như dùng để chỉ khối chủng Yueh (Bách
Việt), đă được xử dụng hết sức tiện nghi. ‘Bách’ dùng để chỉ số nhiều, đếm không
hết, chứ không phải 100. Bởi vào thời Xuân Thu, ở phía Bắc sông Dương Tử có đến
trên dưới 1000 nước [12]. Khối Yueh ở phía Nam chắc cũng tương tự, vượt trên 100
rất xa. Do đó nếu ‘Bách’ (100) là một con số bất chợt, th́ ‘thập bát’ (18) cũng
chỉ như vậy mà thôi.
Nh́n lại công tŕnh của Ngô Sĩ Liên dười góc độ của thế kỷ 21 hiện nay, bắt buộc
ta phải có một cái nh́n khác. Trong góc nh́n đó, chúng ta phải nhớ, Ngô Sĩ Liên
và cộng sự đă có tư duy rất khó vượt khỏi lối suy nghĩ, lối viết lách của những
sư phụ ở Bắc phương. Họ phải theo một khuôn khổ định trước để chứng tỏ tri thức
đă đạt tới mức chuẩn của giới khoa bảng ở phương Bắc. Từ đó ta có thể thấy:
(i) Truyền thuyết viết ra sao, họ chép y lại như vậy. Chỉ được phép than thở
hoài nghi trong phần luận bàn mà thôi. Đặc biệt nhất, Ngô Sĩ Liên đă căn dặn hậu
bối: ‘Hoàn toàn tin vào sách chẳng bằng không có sách’.
(ii) Lối viết sử kiểu Tàu ra sao, họ sẽ theo y như vậy. Tàu không biết nhiều về
nhà Hạ, nên phải gom góp các chuyện cổ tích, các truyền thuyết, rồi đưa vào con
số 18 rất phổ thông, để gói ghém một trang sử cổ cho được đẹp mắt. Không có cách
ǵ khác, phía bên An-nam cũng làm theo y như vậy. Họ làm việc qua nhiều tác phẩm
và nhiều năm tháng, để rồi sau cùng, Ngô Sĩ Liên và các cộng sự thu thập tất cả,
đặc biệt 18 đời vua Hồng Bàng, rồi đưa vào bộ Sử Kư có tầm vóc đầu tiên của nước
Nam.
(iii) Đặc biệt 18 đời vua Hồng Bàng Việt Nam, rập y khuôn 18 đời vua nhà Hạ,
triều đại hồng bàng ở bên Tàu. Để ư rất nhiều bài viết trong vài thập kỷ qua ưa
liệt kê danh sách các đời vua Hùng. Khổ nỗi tất cả đều viết tên hiệu bằng…chữ
Hán ṛng. Thí dụ, Hùng Huệ Vương, Hùng Tấn Vương, v.v. Y như là cái nước của mấy
ông vua Hùng giống như mấy cái nước chư hầu ở đời nhà Châu phía bắc sông Dương
Tử, thời Xuân Thu Chiến quốc. Và những vua Hùng này có lẽ nói với thần dân của
các ông bằng tiếng Tàu, trước khi người Tàu đến nước đó cả ngàn năm.
(iv) Truyền thuyết dựng nước đó, ở mặt cội nguồn, cũng không quên lôi thêm một
trong những biểu tượng xă hội nguyên thủy của Tàu là ‘vua’ Thần Nông. Theo thiển
ư, Thần Nông chỉ là một biểu tượng, chỉ một xă hội đă tiến lên ngành canh nông
để kiếm ăn, sinh sống. Nó cũng giống như thời bây giờ, người ta dùng ‘Thế Kỷ 18’
để chỉ thời đại con người đạt đến cách mạng công nghệ. Hoặc, trong một tương lai
nào đó, có thể người ta dùng ‘thời đại Bill Gates’ để chỉ thời đại điện toán, và
internet. Chứ không phải Bill Gates là ông tổng thống toàn cầu ở vào thế kỷ 21,
đối với hậu thế 4 ngàn năm sau, có thể đoán nhầm, v.v.
(v) Con số 18, thường dùng trong văn hoá Trung quốc để chỉ một chuỗi tŕnh nào
đó theo với chiều thời gian, mà chi tiết thường không biết rơ. Như một tập hợp,
như một liên tục nay đă khép kín. Bản chất chi tiết của từng phần tử trong tập
hợp hay liên tục đó vẫn là ẩn số cho đến ngày nay.
Tháng 3, 2005
N.N.
Ghi Chú
[1] Trần Trọng Kim ( 1971) Việt Nam Sử Lược. Trung Tâm Học Liệu của Bộ Giáo Dục
xuất bản. Đại Nam tái xuất bản tại Hoa Kỳ.
[2] Ngô Sĩ Liên và cộng sự (1697). Đại Việt Sử Kư Toàn Thư. Thanh Việt và Phạm
Ngọc Luật hiệu đính theo bản dịch của Đào Duy Anh. Nxb Văn Hoá Thông Tin
(2004). Bản của Viện Khoa Học Xă Hội Việt Nam được tŕnh bày đầy đủ trên mạng
internet:
perso.wanadoo.fr/charite
[3] Khuyết Danh (1377-1388) Đại Việt Sử Lược. Bản dịch của Nguyễn Gia Tường. Nxb
Thành Phố HCM. Bộ Môn Á Châu Á Học. Đại Học Tổng Hợp, TP HCM.
[4] Họ Châu và họ Chu là hai họ hoàn toàn khác nhau. Từ phát âm, ư nghĩa, lối
viết chữ Hán. Họ Châu có: Châu Nhuận Phát, Châu Ân Lai, nhà Châu bên Tàu (Đông
Châu liệt quốc), Châu Chỉ Nhược (Ỷ Thiên Đồ Long Kư), v.v.. Họ Chu có: Chu
Nguyên Chương (Minh Thái Tổ), Chu Dung Cơ (cựu Tổng Lư), v.v. Từ ‘châu’ và ‘chu’
cũng vậy. ‘Châu báu, Trân Châu Cảng,…’ đáng nhẽ phải được viết và phát âm ‘chu
báu, Trân Chu Cảng,…’. Ngược lại ‘Chu kỳ, Đông Chu liệt quốc,…’ đúng ra phải
được viết và đọc ‘châu kỳ, Đông Châu liệt quốc,…’. Người Việt ưa lẫn lộn hai thứ
họ và từ châu và chu , do việc kị húy chúa Nguyễn Phúc Chu. Xin xem [6].
[5] B́nh Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mă Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân Thu
(USA) tái bản.
[6] Nguyên Nguyên (2004) Loạt bài: ‘Từ chữ Nôm đến quốc ngữ’ (tổng cộng 8 bài).
Có đây đủ.tại các mạng:
Khoahoc.net,
Aihưucongchanh.com,
honque.net,
perso.wanadoo.fr/charite.
[7] Ở một đoạn bàn luận về Lạc Long Quân, Ngô Sĩ Liên [2] cho thấy ông cũng có
một viễn kiến đi trước Charles Darwin khá lâu: Trong buổi trời đất mới mở mang
có người do khỉ mà hoá ra...
[8] Nguyễn Vũ Tuấn Anh (2002) Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại.
Nxb Văn Hoá Thông Tin.
[9] Arthur Cotterell (1995) China – A History. Pimlico (Random House)
[10] Ngọc Phương (2003) Kể chuyện Văn Hoá Truyền Thống Trung Quốc. Nhà Xuất Bản
Thế Giới (Hànội)
[11] Nguyên Nguyên (2004) Thử t́m hiểu số đếm 1-10 trong văn minh Đông Sơn. Xem
các báo mạng:
khoahoc.net,
honque.net,
aihuucongchanh.com,
perso.wanadoo.fr/charite,...
[12] Nguyễn Hiến Lê (2002) Sử Trung Quốc. Nxb Văn Hoá
[13] Janet McRae & Peg White (1984) The Chinese Way. Brooks Waterloo
[14] Phục Hy, đặt ra bát quái, căn bản của Kinh Dịch. Thần Nông: tổ nghề nông và
dược thảo. Hoàng Đế: biểu tượng của vua đất màu vàng (Hoàng). Đất vàng có tên
khoa học là loess, chính là đất bồi do gió mang đến. Ở Trung thổ có lớp dày đến
3 thước. Rất ph́ nhiêu bởi nước thẫm dễ dàng. Người Hoa cho dân tộc họ mang mạng
Thổ, màu vàng, ở miền chính giữa: Trung. Bởi vậy nước của họ gọi Trung Hoa hay
Trung Quốc. Thời xưa, nếu đối chiếu với bên ngoài họ vẫn gọi đất của họ: Trung
nguyên. Thí dụ, trong truyện của Kim Dung, giới giang hồ ưa hỏi nhau: ‘Không
biết tin đồn Tạ Tốn đă trở lại Trung nguyên có thật hay không’. Hiện diện của bà
Nữ Oa, được sắp xếp rất lộn xộn, chỉ chứng tỏ giai đoạn cổ thời theo Mẫu hệ của
Hoa chủng. Theo đó bà Nữ Oa đáng lẽ phải được sắp xếp trước tiên. Điển h́nh,
Thái Dương Thần Nữ của dân tộc Phù Tang bị kẹt cứng thành mẫu tổ của dân Nhật.
Dân Trung Hoa xưa sau khi chuyển qua Phụ hệ đă thay đổi thứ tự và đưa bà Nữ Oa
xuống.
[15] Jeanne Cuisinier (1946) Les Mương – Géographie humaine et sociologie.
Institut d’Ethnologie. Paris
[16] Cũng có thể ‘tá’ ở thời thượng cổ dùng để chỉ ‘hai chục’ theo hệ 9. Hai
chục trong hệ 9 tức là 2x9 = 18. Bởi ‘tá‘ (=
打
/da/ = ‘đôi’(?) = đôi chín = đôi chục?) ngày xưa tại Viêt Nam, có nơi chính là
18. Một tá xoài= 18 trái xoài = 2 x 9 trái xoài. Tất nhiên khi văn minh các nơi
khác đến, ‘tá’ được đem ra dùng để dịch ‘dozen’, rồi trở thành 12. Nhưng đây chỉ
là tản mạn mà thôi.
[17] Xin để ư ngoài cái mốt 18 cho một liên tục về thời đại, cổ sử Hoa ưa cho
việc mất nước v́ đàn bà đẹp. Có lẽ ‘suy diễn ngược’ từ vụ Đường Minh Hoàng với
Dương Quí Phi. Đầu tiên vua Kiệt nhà Hạ v́ mê nàng Muội Hỉ nên bị Thành Thang
diệt. Kế đó vua Trụ nhà Thang v́ sủng ái Đắt Kỉ nên mất nước với nhà Châu. Tiếp
theo đó, vua nhà Châu v́ mê Bao Tự nên thua giặc rợ Khuyển Nhung và bị giết. Sau
đ̣ phải di đô về phía Đông: Đông Châu.
[18] Sử Việt Nam có vẻ mang khuynh hướng dễ dăi xem những vị Tam Hoàng Ngũ Đế
này có thật. Người Tây Phương lại khác. Họ ưa xem những vị thần thánh nguyên
thủy này như những biểu tượng xă hội.