Tìm Kiếm Bài Đã Đăng

BŒnh Gan NhiÍm M«
hepatic-steatosis-22267876
Lab1-Image10
796-1-hlight_default
Võ TÃn Phát
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2014
Bịnh gan nhiễm mỡ (GNM còn gọi là Fatty Liver hay Hepatic Steatosis) là do sự tích tụ quá nhiều mỡ (lipid) trong tế bào gan, và đó là phản ứng thông thường nhứt của gan khi bị tổn hại (injury).

Trong lâm sàng, cần nên phân biệt giữa GNM khi mang thai (pregnancy) hoặc do bịnh gan bởi uống rượu (alcoholic liver disease, ALD) GNM không do mang bầu hay do nghiện rượu (alcoholism). GNM không do nghiện rượu còn được gọi là non-alcoholic fatty liver disease (NAFLD).

Bài viết sau đây chỉ đề cập về NAFLD.

NAFLD là từ được dùng chung để nói đến 3 thứ: 1/ GNM (steatosis or simple fatty liver) , 2/ viêm gan nhiễm mỡ không phải do uống rượu (nonalcoholic steato-hepatitis, NASH), và 3/ chứng xơ gan gây ra bởi NASH (cirrhosis secondary to NASH).

Trong thập niên gần đây NAFLD được thường đề cập và nhận biết như là lý lẽ (reason) để giải thích sự bất bình thường của các thử nghiệm về chức năng gan (abnormal liver function tests) ở những người trưởng thành (adults) tại Mỹ và châu Âu. Mặc dù NAFLD thường xảy ra ở những người thừa cân (overweight), bị tiểu đường (diabetes), hoặc có mỡ máu cao (hyperlipidemia), nhưng nó cũng có thể xảy ra ở những người không mập (normal weight).

Ước lượng có khoảng 1/3 dân số Mỹ bị NAFLD. Thường NAFLD xảy ra ở độ tuổi 40 hay 60.

Với sự gia tăng béo phì ở trẻ con (childhood) đang lên cao đến mức báo động tại Mỹ hiện nay sẽ dẫn tới sự gia tăng NAFLD và NASH trong nhi khoa.

NAFLD là một điều kiện bịnh lý lâm sàng (clinico- pathological condition) được đặc trưng bởi mức men gan trong máu tăng cao (elevated serum transaminases) và GNM. Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu (NASH) là GNM cộng thêm sưng gan (inflammation) và đặc trưng (characterized) bởi sự hiện diện của xâm nhập bạch cầu trung hòa (neutrophil infiltrates).

Tỉ lệ người mới mắc bịnh (incidence) NAFLD tăng cao ở các xứ tân tiến là do tỉ lệ người mắc bịnh (prevalence) béo phì (obesity) tăng cao. NAFDL có sự liên hợp mạnh mẽ (strong association) với bịnh béo phì và nó có thể đi kèm theo với hội chứng biến dưỡng (metabolic syndrome) gồm có rối loạn mỡ trong máu (dyslipemia), lượng insulin trong máu cao (hyperinsulinemia), sự kháng insulin (insulin resistance), và bịnh tiểu đường loại 2.

Mặc dù cơ chế nguyên nhơn bịnh NAFDL chưa được hiểu hoàn toàn cặn kẽ, có sự lưu giữ rõ rệt (net retention) chất mỡ (lipids)-nhứt là triglycerides- trong tế bào gan là điều kiện tiên quyết cần cho sự phát triển của bịnh.

Chuyện này xảy ra do những biến đổi trong sự thu nạp (uptake), tổng hợp, hay tiết ra (secretion) chất mỡ của tế bào gan. Sự kháng insulin cũng có vẻ như là một yếu tố quan trọng trong sự sanh bịnh, cũng như các chất cytokines và đặc biệt là TNF-alpha (tumor necrosis factor).

Hầu hết bịnh nhơn với NADFL chỉ có thuần đơn giản là GNM (pure steatosis) chứ không bị sưng gan (inflammation), và được biết là có một hành trình lâm sàng hiền lành (benign clinical course). Trái lại bịnh nhơn bị NASH thì có nguy cơ cao là bịnh tiến xa hơn và dẫn tới sơ gan (cirrhosis) kèm theo những di chứng của nó (complications) (khoảng hơn 20% người bịnh).

Hầu hết bịnh nhơn với NAFLD không có triệu chứng, và bịnh gan được phát hiện tình cờ qua kết quả thử nghiệm cho thấy mức men gan trong máu lên cao. NAFLD là nguyên nhơn thông thường nhứt của sự tăng cao men gan một cách dai dẳng mà không thể nào giải thích được sau khi bịnh viêm gan và các bịnh gan mãn tính khác đã không tìm thấy.Triệu chứng bịnh nhơn thường than phiền là cảm thấy trong người không ổn (malaise), mệt mỏi (fatigue) và cảm giác khó chịu (discomfort) khắp bụng hay vùng phần tư bụng nằm trên cao bên phải (right upper quadrant). Lá gan to (hepatomegaly) là dấu hiệu duy nhứt có thể tìm thấy khi khám bịnh.

Chụp hình CT hay MRI có nhiều nhạy cảm (more sensitive) cho sự định lượng độ nhiễm mỡ (quantification of steatosis) nhưng không đủ độ chuyên biệt (specificity) hoặc độ nhạy cảm (sensitivity) cho việc xếp hạng tiến trình bịnh (staging the disease) cũng như phân biệt giữa nhiễm mỡ đơn giản (bland steatosis) và NASH có bị hay không bị sợi hóa (fibrosis).

Định bịnh

Gồm các điểm sau:

- sự có mặt của các yếu tố gây nguy hiểm (risk factors).

- loại trừ sự hiện diện của viêm gan B hay C cũng như tiền sử uống rượu quá độ.

- thử nghiệm máu và chụp hình có thể xác nhận (confirm) có bịnh NAFLD, nhưng làm sinh thiết gan mới phân biệt được giữa GNM đơn giản (simple steatosis) và NASH.

- làm sinh thiết gan (liver biopsy) là phương tiện duy nhứt đáng tin cậy và chính xác để cho biết mức độ trầm trọng (grade the severity) của bịnh cũng như ước đoán tương lai (prognosis) của bịnh tình.

Chữa trị

Cho tới nay vẫn chưa có sự đồng thuận về hiệu quả của bất cứ thuốc trị liệu nào dùng cho NAFDL. Bịnh nhơn nên tránh uống rượu và những chất gây độc hại cho gan (hepatoxins). Mục đích chữa bịnh là cải thiện (improve) sự nhiễm mỡ và ngăn ngừa sự phát triển của gan hóa sợi (fibrosis) có thể đưa đến xơ gan (cirrhosis) cùng biến chúng của nó.

Mục tiêu của chữa trị là nhằm vào các yếu tố gây nguy hiểm như béo phì, tiểu đường loại 2, sự kháng insulin, và làm giảm mỡ cao trong máu.

BS Võ Tấn Phát (QYHD18)



(GNM còn g†i là Fatty Liver hay Hepatic Steatosis)
Loading