Tìm Kiếm Bài Đã Đăng
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2014
S au đúng 5 năm “rửa tay gác kiếm, giã từ võ khí ” thì tôi mới có dịp nhìn lại những thời gian qua, kể từ lúc ban đầu chập chững làm lại cuộc đời ở Mỹ cho tới lúc hoàn tất nhiệm vụ và trở về với những điều ước mơ của thời xa xưa...
Những buổi ban đầu...
Khi bước chân tới nước Mỹ ngày 5 tháng 3/ 1979 thì gia đình tôi được bảo trợ tới cái tiểu bang nổi danh là “Cái tủ lạnh của nước Mỹ ” là Minnesota nhưng lại được giới Y học biết đến là nơi có Mayo Clinic, lừng danh bốn biển năm châu...
Khởi đầu thì tôi cũng phấn khởi lắm vì đã có ECFMG từ năm 1968 tuy văn bằng thì đã đem đi đốt khi được tin Công An Việt Cộng đến khám xét nhà, sưu tra lý lịch, hạch sách đủ thứ. Tại Minnesota tôi cảm thấy không vội vàng gì đi tìm một chân residency vì nghe tin thời trước các bậc đàn anh trong trường khi sang Mỹ du học thì đều được thụ giáo tại những chương trình nổi tiếng nhất như neurosurgery thì đi Yale, pediatrics thì Southwestern, pediatric surgery thì Northwestern, orthopedics thì Mayo Clinic, obstetrics thì Emory, public health thì Johns Hopkins, Harvard... và tự nghĩ rằng với thân phận mới của một người VN tỵ nạn thì có lẽ người bạn đồng minh Mỹ của mình cũng không đến nỗi nào mà không ban cho một chỗ residency xứng đáng để làm lại cuộc đời.
Mò kim đáy biển...
Sau khi nhận được bản sao ECFMG từ Philadelphia gủi về thì tôi mới bắt đầu tìm hiểu về việc đi tìm residency ở Mỹ thì mới được một gáo nước lạnh đầu tiên đổ lên đầu. Theo khuyến cáo của Y sĩ đoàn Minnesota thì không một chương trình nào muốn nhận một BS FMG tỵ nạn từ Việt Nam vì trước đó có một vị BS Việt sau khi được một ngôi làng sponsor bỏ tiền giúp đi residency được 1 năm thì đã cuốn gói đi Michigan để học tiếp thay vì về nông thôn “ phục vụ tốt nhân dân...” để trả lại món nợ như đã cam kết! Người Mỹ có lệ thường hay vơ đũa cả nắm đối với những nhóm người thuộc sắc tộc dân thiểu số da màu bất kể cá nhân, có tốt và cũng có xấu. Tôi cũng tỉnh mộng là khi nước Mỹ với VNCH còn là hai nước " vừa là đồng chí, vừa là anh em " thì các BS Việt sang tu nghiệp thì được coi như là những khách quý còn với thân thận một Bác sĩ VN tỵ nạn sau năm 1975 thì đừng nên trông cậy gì vào ân huệ của người Mỹ mà bắt buộc phải " phấn đấu " với những Bác sĩ trẻ trung đầy sinh lực và tài năng lẫn tham vọng từ Ấn Độ, Trung Đông, Do Thái, Đông Âu...
Nản trí, nhưng tôi may mắn được một người BS gia đình người Mỹ cho một tờ JAMA ở trong đó có một vài nơi đang tuyển mộ resident tai Chicago, thành phố đất rộng dân giàu với hơn 8 triệu dân... còn dĩ nhiên là Mayo Clinic thì đừng nên nghĩ tới làm gì mất công!
Ngay từ bước đầu tôi đã “ giác ngộ Cách Mạng “ chuyển ngành sang Internal Medicine hoặc Family Practice vì ở Mỹ nghề trị bệnh trẻ con không khá, dân Mỹ phá thai nhiều hơn là sinh đẻ và tại Mỹ dinh dưỡng ruợu thịt ê hề thì làm gì có bệnh trẻ con ốm đói gày còm như ở Việt Nam? Đi theo con đuờng Pediatrics thì đói là cái chắc, mặc dù tôi đã được thụ giáo với Đại sư phụ Heinz Eichenwald của Southwestern Medical school trong vòng 3 năm khi Ngài sang Việt Nam gây dựng nền tảng về Nhi Khoa cho nước Việt Nam trong thời chiến...
Khởi đầu công việc “ đáy biển mò kim” tôi được bệnh viện Grant mời đến interview sau khi nộp xong đơn từ , bản sao lý lịch trích ngang trích dọc, thành tích phấn đấu tốt, publications. Quản Giáo Charles Davis mời vào interview và sau khi thăm hỏi qua loa thì ông ta đặt ngay một câu hỏi “ What do you do with a chest pain?”
Dĩ nhiên là tôi ú ớ , chỉ biết nói qua loa về bệnh lao phổi, sưng phổi chứ không ai ngờ là trước một trường hợp chest pain là phải nghĩ ngay đến heart attack, kẻ thù số một của nước Mỹ! Quản giáo lắc đầu bèn hỏi thêm một câu nữa “ What do you do with a case of fever of unknown origin ( FUO ) ? ” Tôi tưởng mình trúng tủ bèn sổ một tràng về bệnh sốt rét ( malaria ), ngã nước và khoe kinh nghiệm đầy mình về căn bệnh này... Quản Giáo thở dài và hẹn sẽ viết thư thông báo sau. Trước khi ra về thì Quản Giáo khuyên tôi một câu là nên cố gắng học tập thêm về Y học của nước Mỹ và hãy quên đi những gì đã biết trước đây...
Sau khi giã từ trường Y năm 1969 thì tôi gia nhập quân đội VNCH với cấp bậc Trung Uý và sau 1 năm tại Phú Quốc thì tôi được ân huệ về vùng đất lành chim đậu, mưa thuận gió hoà là Quân Y Viện Long Xuyên, đất thiêng của Phật Giáo Hòa Hảo được cả nước biết tiếng là chống Cộng Sản triệt để vì cái mối thù giết Đức Thày Huỳnh Phú Sổ. Anh Cao xuân Sơn đã an ủi, giúp tôi rất nhiều nhân dịp này và nhờ thế cuộc đời tôi đã chuyển sang một hướng khác. Một lần ơn nghĩa ngàn đời không quên!
Trong suốt 5 năm trời tại đây thì công việc chuyên môn chẳng có gì đáng kể, sáng thì “ tả chấm “ rồi tà tà đến QYV làm việc tại khu Nội Khoa và trưa thì về nhà tả chấm tiếp và đến chiều thì lại tiếp tục, mọi ngày như mọi ngày, sáng xách ô đi, tối xách về, tối rượu sâm banh, sáng sữa bò... trong khi cuộc nội chiến Nam Bắc đang đi lần vào một thế trận mới có mòi ác liệt hơn vì Cộng Sản Bắc Việt nhất định xâm lăng miền Nam yêu quý của tôi mà gia đình chúng tôi đã nhận làm quê hương từ hơn 20 năm qua!
Nhờ tinh thần rộng rãi cởi mở của anh BS Trương ngọc Tích nên các anh em đều làm ăn khấm khá, đời sống thoải mái êm đềm trong khi cả nước đều đang lên cơn sốt của thời kỳ Mùa Hè đỏ lửa, lâm vào thời kỳ chiến tranh sôi động nhất. QYV Long Xuyên giữ vai trò yểm trợ cho chiến trường Chương Thiện, Thất Sơn, Cà Mâu và Giang Đoàn 26 có nhiệm vụ khai thông thủy lộ sang Cao Miên. Khi chứng kiến hình ảnh thi thể các tử sĩ từ biên giới Kompong Trach chuyển về hay từ thủy lộ khai thông Takeo với những giọt nước mắt của những quả phụ thất sắc đến nhận xác chồng thì tôi càng cảm thấy sự vô lý của cuộc chiến tương tàn cốt nhục không biết khi nào mới xong.
Những lúc rảnh rổi thì anh Tích cùng các anh em chơi Domino nhưng kể từ khi tôi có cái “ tội “ đem theo một cỗ mạt chược thì đã làm “ hủ hóa “ nhiều anh em khiến cứ chiều thứ Sáu là rủ nhau “ koong “ cho đến tận sáng hôm sau đôi khi sang cả ngày chủ nhật, phòng mạch bỏ bê...cho đến cái năm 1975 bi đát đó.
Cũng như tất cả các anh em trong quân đội, chúng tôi khăn gói đi trình diện “ học tập cải tạo “ trong 10 ngày nhưng sau này biến thành một thời gian vô hạn định như lời hứa của các quản giáo nói là “ khi nào tiến bộ thì về...”
Trại cải tạo tù nhân...
Sau gần 3 năm cải tạo, “học tập tốt, lao động tốt “ thì tôi được thả về làm việc tại Trường Trung Học Y tế thành phố với một nhóm sinh viên điều dưỡng, nữ hộ sinh...
Cũng vui và cũng buồn vì không biết số phận sẽ ra sao dưới một chế độ không bao giờ chấp nhận thân phận của những người thuộc diện ngụy quân, ngụy quyền. Vừa làm quản giáo, vừa lên lớp nói truyện lăng nhăng ngoài việc đi trồng khoai, trồng mì tại các nông trường thì tôi chẳng có dịp học tập thêm về chuyên môn vì Ban Giám Hiệu khuyến khích “ không nên đọc sách nước ngoài...”. Tôi cũng chẳng màng học hỏi trau dồi kiến thức làm gì vì có biết thêm cũng không giúp ích gì trong một chế độ không chấp nhận một người thuộc diện xã hội đồi trụy. Anh Năm Châu, Chính Uỷ nhắc nhở là “ các anh đều là một lũ cá mè một lứa cả , Cách Mạng không đem đi “cáp duồn” là may lắm rồi...” Cuốn sách kinh điển duy nhất là cuốn cẩm nang Nội Khoa của GS Đặng văn Chung không hề thay đổi từ năm 1950 trong khi đó thì cuốn " Kinh Thánh " của Y học Mỹ Washington Manual cứ hai năm được cập nhật và viết lại hoàn toàn. Cuốn sách này đã tái bản ít nhất 60 lần và chưa hề bao giờ sai xót một chữ!
Anh Năm Châu khoe du học ở Poznan ( Ba Lan ) và thỉnh thoảng cũng tỏ ra thân mật nói về đời sống cao đẹp của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Tôi chỉ nhẹ nhàng nói là Poznan có một chợ phiên Ba Lan nổi tiếng hàng năm khiến anh hơi ngỡ ngàng tại sao một “thằng BS ngụy mới ở tù ra “ lại biết điều này. Anh quên rằng tại Poznan vào năm 1956 đã có một vụ khởi nghĩa đầu tiên chống lại Cộng Sản đằng sau bức màn sắt và nhân dịp đó một nhóm sinh viên chúng tôi đã tham gia biểu tình tại Saigon về vụ này ủng hộ nhân dân Ba Lan và Hung gia lợi. Sau khi nghiên cứu về lịch sử đằng sau bức màn sắt thì tôi mới biết là vụ đình công của công nhân tại Poznan năm 1956 là phát súng đầu tiên làm rung chuyển chế độ Cộng Sản Đông Âu. Trước đó có vụ nổi dậy tại Đông Đức tháng 6/ 1955 ngày nay là tên của một con đường tại Đông Bá Linh thay thế Đại Lộ Stalinallee...
Bản tính tôi hay nói đùa nên trong một dịp lên lớp cho các nữ hộ sinh giảng về các chứng bệnh sinh lý thì tôi quả quyết là ở bên Âu Châu, Mỹ châu...có hiện tượng đàn ông lấy đàn ông và đàn bà lấy đàn bà, same sex marriage khiến nhiều em nữ hộ sinh thắc mắc ngay là “ đàn bà làm thế nào để giao hợp với nhau? ” và nhờ Ban Giám Hiệu giải thích... khiến tôi được mời lên “ làm việc “ ngay với anh Năm Châu và từ đó cẩn thận hơn về cách ăn nói...
Khi còn ở trong tù thì tôi có ước mơ là một ngày kia miến Nam sẽ thắng miền Bắc nhờ văn hóa cao hơn, dân tình phóng khoáng hơn, đất đai giàu mạnh hơn tuy bị thua về quân sự. Tôi hằng nghiên cứu về lịch sử thế giới thì thấy có một quy luật bất di dịch là khi hai nền văn minh, hai dân tộc khác nhau va chạm thì phía có văn hóa cao hơn sẽ “ đồng hóa “ phía kém hơn bất kể bên nào thắng bằng xâm lăng quân sự. Văn hóa Trung Nguyên đã đồng hóa người Hung Nô, Mông Cổ, Mãn Châu và văn hóa Hy lạp đồng hóa người Macedoine, văn hóa La Mã đồng hóa các sắc dân dã man phương Bắc, văn hóa Ấn Độ đồng hóa các bộ lạc du mục Trung Á và sau cùng văn minh Đại Việt đồng hóa văn minh Chiêm Thành, Khmer...vậy thì tại sao miền Nam lại không chiến thắng miền Bắc bằng con đường văn hóa? Liệu tôi và gia đình có thể một ngày kia được chứng kiến được hiện tượng này không? Và chờ đợi đến bao giờ?
Tôi bèn chuẩn bị vuợt biên cùng gia đình và đổ bộ lên Marang bờ biển Mã Lai và ngày 18 tháng 10 / 1978 được Cảnh sát Mã Lai đem đi “giam giữ” tại Pulau Bidong, nằm chờ trên hòn đảo “buồn lâu bi đát” đúng 4 tháng rồi được máy bay của Cao Uỷ bốc đi đến cái xứ lạnh Minnesota còn có tên là xứ Vạn Hồ ( Ten Thousand lakes) ...
Trong suốt khoảng thời gian 10 năm ở VN, sau khi ra trường thì tôi gần như không rờ tới một cuốn sách hay tài liệu Y học, hoàn toàn mù tịt về những thay đổi và tiến bộ to lớn của lãnh vực Y tế trong suốt thập niên 70 và hậu quả hiển nhiên là khi được Quản Giáo Bệnh viện Grant hỏi về Chest pain, FUO thì bị “ á khẩu “ và trật đường rầy ngay tại chỗ! Vì chiến tranh huynh đệ tương tàn tôi đã bị mất đi những khoảng thời gian quý báu nhất của cuộc đời, không học hỏi được gì, không có dịp khảo cứu hay tìm hiểu và đóng góp được gì cho khoa học kỹ thuật...
Khi hoa anh đào nở...
Tôi trở về nhà đứa cháu tại Chicago không biết làm gì cho hết thời giờ thì tôi được cháu tôi cho biết là ở Chicago có một Bác sĩ Việt Nam rất có lòng hào hiệp hay giúp đỡ mọi người, đó là anh Phạm gia Cổn mà anh thường tự gọi tên mình là “ Cổn L. “. Có thể nói là anh Cổn đã là một trong 3 người đã đưa cuộc đời tôi sang một khúc quanh mới sau anh Cao xuân Sơn và anh Trần quốc Toản. Tôi vừa gọi điện thoại là anh Cổn đã vui vẻ đến tận nơi nhà cháu tôi đưa cho một tập giấy kết quả “ matching program “ vừa công bố và khuyên tôi nên dùng Yellow Pages gọi điện thoại ngay tới những nơi còn trống chỗ, unmatched.
Vẫn dáng dấp của một nhà võ tướng, hào hùng vui vẻ, anh Cổn thực là một anh tài kiểu mẫu trong giới anh em chúng tôi và những thành quả anh đạt được sau này quả thực đáng kính nể. Anh vừa là một đại võ sư, Đệ Bát đẳng huyền đai kiêm Giáo Sư về môn gây mê tại một Đại Học nổi tiếng của Mỹ và anh có một võ đường tại quận Cam với hàng trăm võ sinh...
Matching program là chương trình “tuyển lựa ca sĩ tài năng ” giúp các chương trình residency “match” với các sinh viên Y khoa Mỹ mới ra trường và trung bình mỗi năm giữa con số bệnh viện cần resident và sinh viên Y khoa Mỹ mới ra trường có một sự chênh lệch khoảng từ 7000 đến 10000 chỗ, nhiều hay ít tùy theo nhu cầu của cả nước, nên “ Đảng AMA” phải chiêu hồi thêm các Bác sĩ nước ngoài vào làm việc và sau 3 năm học tập, cải tạo tốt thì được cấp giấy đi thi Board , cái khuôn vàng thước ngọc để đánh giá một Bác sĩ. Tiểu bang Florida là nơi duy nhất cho các BS FMG hành nghề mà không cần phải qua một thời gian cải tạo. Texas, Louisiana cũng có thời rộng rãi như Florida để tuyển mộ BS vào làm các trại tù hay viện dưỡng lão mà không cần residency...
Nhờ kẽ hở này nên các BS Ấn Độ, Đông Âu, Trung Đông và sau cùng Á châu như Phi luật Tân, Hàn Quốc, Hương Cảng và cả Việt Nam có dịp đổ vào Mỹ để kiếm sống và làm lại cuộc đời. Đối với một Bác sĩ Ấn Độ mà lọt được vào Mỹ để làm ăn thì còn sướng hơn là trúng số độc đắc vì có người nói là đối với một người Ấn Độ thì “ nếu phải chặt một cánh tay để được vào Mỹ định cư thì họ cũng sẵn sàng...”
Các BS Ấn Độ đông đảo hơn cả vì cũng dễ hiểu, tại Ấn Độ có hơn 200 Đại Học Y khoa , con số đào tạo dư thừa đổ đi không hết, nhiều như “ cát sông Hằng Hà ”. Họ cũng học hành, thực tập hoàn toàn bằng tiếng Anh, đọc sách Y học tiếng Anh nên sang Mỹ họ như cá gặp nước, hổ về rừng , đại bàng vỗ cánh, thành công mau lẹ. Và cứ thế từ hàng chục năm qua, các lớp BS đàn anh dẫn lối chỉ đường cho đàn em khiến hiện nay con số Bác sĩ Ấn Độ FMG tại Mỹ lên tới khoảng trên 70000 vị và nếu kể cả lớp con cháu tốt nghiệp ở Mỹ thì có thể lên tới 100000 người, làm chủ cả nước Mỹ kể cả các Đại Học Y khoa Mỹ, các phòng mạch tư và công, tại khắp nơi tận hang cùng ngõ hẽm không nơi nào vắng bóng một người BS Ấn độ tài giỏi, hăng hái và chiều khách theo kiểu ‘ lương Y kiêm từ mẫu..."
Ấn Độ với hơn 1 tỷ người ( không kể Pakistan, Bangladesh mỗi nước cũng trên 150 triệu ) tuy có quốc ngữ là tiếng Hindi nhưng phe miền Nam không muốn dùng và chọn Anh Văn làm gốc nên họ nói tiếng Anh rành rọt, đúng giọng Oxford, Cambridge. Vì cả nước có tới hơn 400 ngôn ngữ khác nhau nên người Ấn , Pakistan bắt buộc phải dùng tiếng Anh để giao thiệp khiến khi họ sang Mỹ thì không hế có “ communication problems” trong khi đó thì đây là một đại vấn nạn đối với “ phe ta ”! Một ưu điểm của các BS Ấn Độ là nhờ có một lịch sử và truyền thống văn hóa và tôn giáo lâu đời nhất thế giới nên các từng lớp trí thức Ấn độ đều có một sự tự hào và hiểu biết cao thâm về những sách kinh điển của họ như kinh Bhagavad Gita, Dhammapada, Upanishad... bằng tiếng Sanskrit khiến họ không hề mang nặng tự ti mặc cảm đối với văn hóa và khoa học kỹ thuật của nước Mỹ. Ngược lại cộng đồng Ấn cũng không tìm cách phô trương hay “ truyền đạo “ tín ngưỡng của họ tại Mỹ mà chỉ chia sẻ một cách thận trọng và kín đáo đối với một vài người thành tâm muốn học hỏi về Ấn giáo còn có tên là Sanatana Dharma tạm dịch là Chính Pháp! Đạo Phật chỉ là một chi nhánh nhỏ bé của Ấn Giáo và nay không còn bao nhiêu ngay tại nơi xuất phát...
Khoảng thời gian sau ngày 15 tháng 3 ( thời gian hoa anh đào nở ở Washington ) là ngày công bố kết quả matching nên có một cuộc chạy đua vô cùng ác liệt giữa các FMG vào những chỗ unmatched. Chỉ trong vòng vài ngày là các chỗ này được các FMG “ nhảy dù “ vào chiếm cứ ngay vì nhiều FMG Ấn Độ khôn ngoan vào “ nằm vùng “ phục kích từ trước tại các thành phố lớn, làm việc tại những cơ sở research, chờ đợi thời cơ như kiểu Hồ chí Minh nằm ở hang Pắc Bó... ra tay đúng lúc trong khi tôi thì vẫn nhởn nhơ không hay biết gì cả. “ Lỡ vận hai Xe đành bỏ phí, gặp thời một Tốt cũng thành công! “
Nếu không có tập tài liệu matching của anh Cổn thì có lẽ cuộc đời tôi đã đổi sang một chiều hướng khác. Năm 1979 là một năm đặc biệt vì nhờ kỳ thi VQE ( Visa qualification examination ) ra đời nên đã tạm thời chặn lại làn sóng các FMG nhưng khoan hồng cho những người thuộc diện “ tỵ nạn “ nên con số dư thừa unmatched khá nhiều, người Bác sĩ diện refugee chỉ cần đưa ra tờ ECFMG là được chiếu cố ngay. Tôi bèn ở nhà gọi điện thoại tới một số chương trình thì đều được mời gửi hồ sơ lý lịch để được xét cứu rồi hẹn đến cho Quản Giáo xem mặt...
Gọi đến Chicago Medical School ( CMS) thì được Chính Uỷ chief program là Harvey Cantor mời đến phỏng vấn ngay và còn chỉ đường đi nước bước tới tận nơi tại North Chicago và sau khi xem xét hồ sơ và thấy tôi có được một giấy giới thiệu của GS Eichenwald và điểm ECFMG trên 80 nên tôi được mời ký contract ngay tại chỗ , không hỏi han thêm gì cả!
Dĩ nhiên là tôi ký cả hai tay, ra về thông báo cho vợ con để khăn gói sang Chicago còn có tên là thành phố giông gió ( Windy city ) quê hương của tướng cướp Al Capone và thị trưởng Richard Daley cầm đầu bộ máy đảng Dân Chủ theo liểu cha truyền con nối của mafia!
Về nhà tôi bán tin bán nghi , tại sao họ lại nhận mình quá dễ dàng mà không kiểm chứng tài năng võ nghệ gì cả vì nếu đem ra mổ sẻ thì quả thật sau 10 năm gián đoạn thì sự hiểu biết của tôi về Y học chưa bằng 1 sinh viên Y khoa Mỹ mới ra trường và dĩ nhiên không thể nào so sánh được với một Bác sĩ Ấn Độ trẻ trung mới ra trường, sinh lực dồi dào, Anh văn lưu loát, văn võ kiêm toàn, hai tay hai súng, trên thông thiên văn, dưói hiệu địa lý...
Tôi đã mất đi những khoảng thời gian quý báu nhất của một đời người khi mà trí não sung sức nhất để khảo cứu, học tập. Tôi giống như một cây cam, cây quít sinh trưởng tại miền Nam được đem trồng vào mùa Thu, mùa Đông tại vùng đất Chicago, Giang Bắc lạnh lẽo thì làm sao có thể sinh ra được những bông trái ngon ngọt? Tình trạng “Nửa chừng Xuân” này của tôi sẽ khiến cho tôi phải trải qua những năm tháng cam go nhất trong đời " cải tạo tự nguyện " nhưng đã chót lỡ bước sang ngang, nhắm mắt đưa chân...
Thời gian ở Quân Y Viện Long Xuyên thì giỏi về koong mạt chược , tại Phú Quốc thì chuyên về trồng rau nuôi các tù nhân hoặc đi tắm biển, săn cá còn trong trại cải tạo thì chuyên khảo cứu về các thế cờ tướng hóc hiểm, nghiên cứu Tử vi đẩu số, cầu cơ giáng bút, luyện phép thuật yoga, niệm chú bắt ấn tantra mudra, đồng thiếp, xem chỉ tay, thiên văn địa lý, học và viết Hán tự, tiếng Nga với văn tự Cyrillic hóc hiểm...nhờ các anh em trong tù chỉ dạy trong khi đó thì ở bên ngoài Y học đang có những bước tiến nhảy vọt! Ở trong tù tôi mới thấy các anh em sĩ quan VN có quá nhiều tài năng chuyên môn cũng như văn học, âm nhạc , nghệ thuật...hiếm có bị bỏ phí vào những công việc chân lấm tay bùn trong khi thế giới bên ngoài đang cần đến những khối óc đang bị mai một. Sau này qua những dịp tiếp xúc với những di dân từ khắp nơi trên thế giới sang Mỹ định cư và so sánh họ với người Việt thì tôi mới thấy rằng quả thực dân tộc Việt Nam là một dân tộc “ một ngàn lần anh hùng “ như lời các cán bộ Quản Giáo khoe khoang!
Tâm trạng u mê của tôi cũng như sự hiểu biết về khoa học của tôi vào năm 1979 giống như một người ngủ thiếp từ cung trăng Rip van Winkle trở về trái đất sau 10 năm xa vắng...
Đại Học Bombay...
Buổi giao ban đầu tiên tại bệnh viện St Mary of Nazareth thì tôi đúng như “ vịt nghe sấm “ trong khi người resident năm thứ nhất gốc Ấn Độ trình bày lưu loát như nước chảy mây trôi, hai tay không cần cầm giấy ( vì đó là một hình thức chứng tỏ nắm vững vấn đề. Khi giao ban có một quy luật là các resident nội trú không được phép cầm giấy đọc giống như kiểu thày Trần Vỹ dạy physiology ). Dĩ nhiên quản giáo Mỹ rất hài lòng thán phục khen ngợi “ văn hóa tư tưởng tốt, trình độ khoa học tiên tiến , trí tuệ như biển...”
Nhìn qua nhìn lại thì tôi thấy từ năm thứ nhất, thứ hai cho đến năm thứ 3 và các fellow cũng toàn là Ấn Độ hay Pakistan, Trung Đông... nên tôi nói đùa sau khi giao ban “ đây là Đại Học Y khoa Bombay...”
Nhưng hai năm sau, với vai trò chief resident in Internal Medicine thì tôi giới thiệu được gần 8, 9 anh chị em Việt Nam vào Chicago Medical School thì các anh bạn Ấn Độ,Pakistan, Phi...của tôi lại nói kháy trở lại rẳng “ Đây là Đại Học Y Khoa Saigon...” vì phe ta chiếm đa số tại đây, tôi không còn cảm thấy cô đơn như trước với con số anh chị em Việt Nam đông đảo” vừa là đồng chí, vừa là anh em...”
Nơi này cấm chó và cấm người Tàu...
Trong một dịp tâm tình với người chief resident Ấn Độ thì tôi có dịp hỏi han rằng chương trình tại Chicago Medical School có tốt không và tại sao anh lại làm việc ở đây. Anh ta chậm rãi nói “ nếu tốt thì nó đã không nhận tao và mày...nhưng thôi hãy cố gắng đi, xong đủ 3 năm cải tạo thì mày tha hồ ra trường hành nghề không khó gì đâu.Những chương trình tốt như Northwestern, Rush...Họ không cho phép mày nộp đơn với cái thân phận FMG, các con nữ thư ký hỗn sẽ vả vào mặt mày cho bõ ghét ...”
Khi thực dân Anh chiếm vùng tô giới Thượng Hải thì ngoài cửa câu lạc bộ dành riêng của họ có tấm bảng “ nơi này cấm chó và cấm người Tàu...” Tại Boston thời trước cũng có cái trò kỳ thị như “ nơi này cần người, nhưng Irish man thì xin miễn “ và tại miển Nam như Alabama, Georgia cũng có những tấm bảng “ colored people not wanted “ thì cũng giống như tại một số chương trình residency nổi tiếng ở Mỹ có lập trường “ we do not take FMG “ , thư gửi đến bị trả lại không thèm mở vì nơi này cấm chó và cấm FMG!
Tôi hiểu ngay là sau khi nước Mỹ “tháo chạy khỏi Việt Nam” thì chúng ta chỉ là những thành phần rơi rớt mà người Mỹ đồng hóa với một cuộc chiến mà họ đang muốn quên đi vào dĩ vãng. Chúng ta không còn có một chỗ đứng như trước năm 75 của một người bạn đồng minh thân thiết mà dưới thời Eisenhower, Kennedy nước Việt Nam được coi là tiền đồn chống Cộng Sản trên thế giới. Nước Mỹ theo truyền thống của nhà ngoại giao Anh trong thế kỷ 18 Lord Palmerston là “ không có bạn trăm năm và cũng không có kẻ thù truyền kiếp mà chỉ có quyền lợi vĩnh viễn mà thôi...”
Sau khi phủi tay, cuốn cờ ra đi thì người Mỹ không còn đoái hoài gì đến thân phận một FMG Việt Nam , nhất là một cựu tù nhân đã từng thân bại danh liệt , tóc bạc da mồi , đầu óc lẩm cẩm quê mùa!
Nhưng tôi bèn cãi lại anh bạn Ấn Độ “ thế thì thế hệ con cháu của chúng ta thì sao? Liệu có cái trò 3 đời làm Cách Mạng mới được học lái phi cơ Mig không?”
Anh BS Ấn Độ gật gù nói “ Hãy yên tâm. Con của mày sẽ là một American Graduate chính hiệu con nai thì ... the sky is the limit! Hãy cố gắng khuyến khích nó học đi, hãy dạy và nhắc nhở nó cái gương nhọc nhằn của đời cha, đời ông để rồi trả thù dân tộc! Không sao đâu, đời cha không được thì đời con phải được. Người Mỹ có gì hay ho đâu, còn chúng ta cũng giống như người Tàu, người Ấn Độ, Trung Đông đã có những truyền thống văn hóa lâu đời từ cả chục ngàn năm về trước. Đừng ham làm giàu làm gì , nghể Bác sĩ ở Mỹ không bao giờ chết đói cả và Y nghiệp Mỹ cũng không có cái truyền thống cứu nhân độ thế của chúng ta đâu mà chỉ là một thứ business mà thôi, lơ mơ là bị lũ “ luật sư kên kên ” rình mò đưa ra Tòa lấy lại bằng hành nghề. Còn danh vọng hả, không ai cho phép mày làm research hay làm Quản Giáo giảng dạy cho lũ sinh viên Y khoa Mỹ bạc bẽo đâu! Người Mỹ chỉ quen nhìn chúng ta như những tên Bác sĩ nghèo mạt ăn nhờ ở đậu chứ không thích chúng ta lên làm thày của họ! Họ chỉ muốn chúng ta giữ vai trò của thằng mọi Tonto đi hầu đằng sau the Lone Ranger phong lưu mã thượng! Hãy an phận thủ thường cho qua ngày đoạn tháng!
Ngay như tao đây sau khi có được một số vốn kha khá thì tao sẽ về Florida mở một vài cái motel cũng đủ sống thỏa thuê suốt đời .( Hiện nay 60 % các motel bình dân ở Mỹ do người Ấn Độ làm chủ phần lớn là nhóm tài phiệt của giòng họ Patel còn Việt Nam thì làm chủ ngành làm nail tới 90 % do nữ tài tử Tippi Hedren bày ra cho một số gia đình VN vào năm 1975! ).
Quả thật ngày nay tôi thấy đa số các thế hệ thứ hai, thứ ba của các bạn tôi đều xuất thân từ những nơi như Mayo Clinic, Harvard, Dartmouth, Waterloo, McGill, Georgetown, Massachusetts Institute of Technology, Emory, Johns Hopkins, Stanford, Sloan MIT School of management, West Point... Những anh tài trẻ trung Việt Nam ở Mỹ như Lê bá Hùng, Jeanne Nguyễn, Đinh Việt...ngày nay nhiều như sao trên trời, ra đường ngoài ngõ đâu đâu cũng gặp anh hùng, một số hiện nay đang trên đường trở thành những Bill Gates, Warren Buffett, Steve Jobb... Quả thật chúng ta không uổng công khi sang xứ Mỹ làm lại cuộc đời dù rằng chỉ là những bậc thang lót đường cho các thế hệ mai sau...
Vũ văn Dzi,MD.
Oklahoma City.
Email: regulus1940@gmail.com