Tìm Kiếm Bài Đã Đăng

Ung ThÜ Vú (Breast Cancer)
breast-cancer-cells-pictures
stem-cell-blog-for-NF-on-april-19th
image.axd
breast-cancer-cells
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2014
NguyÍn Nguyên
breast
 
Trọng tâm của bài viết chỉ gồm những điểm cơ bản nhất về bệnh Ung Thư Vú (Breast Cancer).

Đối tượng phục vụ của bài viết này không phải là các vị “học giả”, “học sĩ”, hay các chuyên viên mà là các bạn hiền và thân quyến của người viết. Do đó, các chi tiết và số liệu rườm rà sẽ không đuợc bàn cặn kẽ; người viết hy vọng rằng: chúng sẽ được bổ sung bởi các vị nhân viên (Health Care Provider - HCP) hữu trách.

Vì thuật ngữ bằng tiếng Việt chưa được mọi người đồng lòng thừa nhận, các thuật ngữ và các chữ viết tắt sẽ được ghi chú trong dấu ngoặc đơn, ví dụ (HCP = Health Care Provider). Mục tiêu của bài viết này chỉ nhầm cung cấp thông tin chung; các trường hợp cá biệt cần được chẩn-trị và tư vấn bởi các nhân viên ý tế (HCP) hữu trách.

Sơ lược về nguyên nhân gây bệnh Ung thư vú

Nói ngắn gọn, bệnh Ung thư vú có thể xảy ra ở người Nữ lẫn người Nam, và động vật có vú. Không có vú thì không bị Ung thư vú.

Nguyên nhân gần của bệnh Ung thư vú là sự phát triển hỗn lọan của các Tế bào thuộc vùng vú - kể cả vùng da chung quanh vú như bệnh Paget ở vú. Tế bào ung thư là lọai tế bào không bình thường. Không bình thường vì chúng tăng trưởng và phân chia ra nhanh chóng hơn tế bào lành mạnh. Vài tế bào ung thư có thể tạo thành “khối u” gọi là “bướu” (tumor). Tất cả bướu đều có thể thay đổi vê dạng và cỡ, nhưng có vài bướu tăng nhanh chóng, còn một số khác thì tăng từ từ. Tế bào ung thư có thể lan truyền đến các bộ phận khác của cơ thể thông qua hệ thống máu và bạch huyết. Trường hợp này gọi là di căn (metastasis).

Nguyên nhân xa hơn gây nên Tế bào ung thư ở vú gồm: di truyền, hóa chất (như thuốc ngừa thai, thuốc “hồi xuân” (HRT), hoặc nhiễm chất phóng xạ (radiation)…

Như vậy Ung thư vú rõ ràng là lọai ung thư bắt đầu từ vú. Ung thư vú có thể được phát hiện do chụp quang tuyến vú, do phụ nữ tự rờ thấy có u vú, hoặc do bác sĩ khám tìm ra.

Để phát hiện ung thư vú, điều quan trọng là:

* Tự mình kiểm tra vú hàng tháng.

* Khám bác sĩ hàng năm nếu quý vị ngoài 40 tuổi. Số lần khám này thường ít hơn đối với những phụ nữ trẻ hơn.

* Chụp quang tuyến vú mỗi năm, sau tuổi 40.

Sơ lược về Mô vú

Mô vú do kết hợp của nhiều tế bào của vú. Vú của phụ nữ có thể cảm thấy cứng hơn và có nhiều khối u trước khi mãn kinh. Phụ nữ có ít estrogen sau khi mãn kinh, cho nên vú mềm hơn và ít khối u.

Mô vú cứng; nhiều khối u có thể che lấp khối u nhỏ làm cho khó tìm thấy chúng. Khi tự kiểm tra vú mỗi năm, quý vị trở nên quen thuộc với mô vú của mình và để ý đến những thay đổi. Khối u nhỏ cũng có thể được phát hiện do chụp quang tuyến vú hoặc từ bác sĩ khi khám vú cho quý vị.
Vài khối u nhỏ đến nỗi chỉ có thể phát hiện qua chụp quang tuyến vú.

Xét nghiệm về Ung thư vú

Nếu khối u được tìm thấy, thì sẽ phải chụp quang tuyến vú hoặc làm siêu âm. Sinh thiết thường thực hiện để kiểm tra xem khối u có là ung thư hay không; và nếu thật như vậy, thì ung thư này thuộc loại nào. Sinh thiết là thủ thuật cắt các mẩu mô rất nhỏ. Sau đó mẫu thử nghiệm được bác sĩ kiểm tra. Nếu sinh thiết cho thấy có tế bào ung thư, thì nhiều thử nghiệm khác sẽ được thực hiện để xem ung thư có lan truyền đến các bộ phận khác trong cơ thể hay không.

Cách chữa trị Ung thư vú

Dựa vào kết quả sinh thiết và loại ung thư, quý vị và bác sĩ sẽ quyết định cách chữa trị tốt nhất cho ung thư vú của mình. Đây là những cách chữa trị có thể thực hiện:

1. Phẫu thuật

Phẫu thuật được thực hiện để loại bỏ càng nhiều ung thư càng tốt. Hoặc phải cắt bỏ toàn bộ vú, gọi là cắt bỏ tuyến vú (mastectomy), hoặc chỉ cắt bỏ một phần vú, gọi là cắt bỏ khối u (lumpectomy)

* Với cả 2 loại phẫu thuật này, hạch bạch huyết dưới cánh tay đều được kiểm soát xem có ung thư không. Quý vị và bác sĩ cũng có thể bàn về phẫu thuật tái tạo (reconstruction surgery).

* Phẫu thuật này được thực hiện để tạo vú nhìn như bình thường.

Quý vị vẫn cần có nhiều cách chữa trị thêm. Cắt bỏ tuyến vú hoặc cắt bỏ khối u cũng không bảo đảm là ung thư vú đã hết trên toàn bộ cơ thể. Các tế bào ung thư quá nhỏ để phát hiện vẫn có thể còn lại trong cơ thể.

2. Bức xạ trị liệu (còn được gọi là “xạ trị”)

Khi cách cắt bỏ khối u đã được thực hiện, thì bức xạ trị liệu (radiation therapy) là bước kế tiếp. Bức xạ trị liệu được thực hiện để chữa trị toàn bộ vú. Bức xạ trị liệu thường bắt đầu từ 4 đến 6 tuần sau khi phẫu thuật.

3. Trị liệu bằng “Hóc môn” (hormones) và hóa chất

Cách chữa trị này cũng cần thiết để nhắm vào các tế bào ung thư có thể vẫn còn trong cơ thể. Cách này có thể được thực hiện trước khi phẫu thuật để làm bướu co lại, hoặc sau khi phẫu thuật để giết chết tế bào ung thư nào đã và đang lan truyền hoặc vẫn còn lại trong cơ thể.

“Hóc môn” trị liệu thường là dạng thuốc viên được dùng để chống lại estrogen trong cơ thể. Hầu hết phản ứng phụ thông thường là những dấu hiệu và triệu chứng của lúc “biệt kinh kỳ” (mãn tắc kinh) như phừng nóng mặt, đổ mồ hôi…

Hóa chất trị liệu là thuốc được chích vào trong ống tĩnh mạch hoặc bằng thuốc viên. Thuốc sẽ giết chết tế bào ung thư. Các phản ứng phụ thông thường bao gồm thấy mệt mỏi, bị rụng tóc và ói mửa. Các phản ứng phụ này thường chỉ có tạm thời.

Tiên lượng (prognosis) của bệnh Ung thư vú

Việc chữa trị sớm, theo dõi (followup) đúng cách và đầy đũ đã giúp cho tiên lượng (prognosis) của bệnh Ung thư vú khả quang hơn xưa. Chứng cứ là:

Số thống kê tại Úc cho thấy Tỷ lệ sống còn (survival) 5 năm sau khi bị Ung thu vú là 72% trong thập niên 1982-1987. Tỷ lệ này đã tăng lên đến 98% trong thập niên 2006-2010.

Quý vị cần bàn với bác sĩ hay y tá nếu có bất cứ câu hỏi hay thắc mắc nào.

Nguyễn Nguyên


“Mách có chứng”:

Nguồn nên đọc thêm:
<https://www.nlm.nih.gov/medlineplus/breastcancer.html>
<https://www.patient.co.uk/health/breast-cancer-leaflet>

Loading