Tìm Kiếm Bài Đã Đăng
Ban Dịch Thuật: Lý Văn Quý - Nguyễn Hiền - Nguyễn Hoàng Diệu - Trịnh Bình An
Nguyên tác tiếng Anh
Chương 13
Mỹ Lai
Cuộc thảm sát hơn ba trăm thường dân vô tội tại ngôi làng nhỏ Mỹ Lai, một hành động ghê tởm nhất kể từ thời của các cuộc chiến tranh chống lại người da đỏ gần một trăm năm về trước lại gây nên bởi một đơn vị bộ binh Hoa Kỳ, đã xảy ra vào ngày 16 tháng 3 năm 1968. Biến cố này xảy ra trong phạm vi Vùng I Chiến Thuật một vài tuần trước khi George Philip đến. Mặc dù sự việc đã không được công bố với dân chúng Mỹ cho đến năm 1969 nhưng nó đã trở thành nguyên nhân đình đám cho tất cả những người phản đối sự tham gia của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.
Đối với những người được thông tin một cách sai lạc hay họ cố tình không chịu tìm hiểu, chữ "Mỹ Lai" đã trở thành một tĩnh từ có tính cách diễn tả, một biện pháp mà mọi người cho rằng đó là phương cách mà giới quân sự thường sử dụng để hoạt động và thực hiện các cuộc hành quân. Trên thực tế, cuộc thảm sát tại Mỹ Lai là kết quả của sự yếu kém trong vai trò chỉ huy của một số đơn vị thuộc Sư Đoàn Americal và là một điều sai lầm, hoàn toàn đối nghịch với đường lối tiến hành các cuộc hành quân tác chiến.
Sự kiện tại Mỹ Lai thật ra chỉ là một trang sách phụ so với sách lược của Việt cộng, một sự lặp lại, ở một quy mô nhỏ hơn rất nhiều, của các hành động của quân đội Bắc Việt tại Huế vừa rồi, hoặc những chuyện xảy ra thường xuyên trong các cuộc tổng công kích của Cộng sản vào những năm 1972 và 1975. Tất cả những điều này đã làm cho sự kiện Mỹ Lai trở thành gần như vô nghĩa nếu so về số lượng tuyệt đối và sự độc ác tàn bạo.
Các tin tức trong nước và quốc tế, tuy sự kiện về Mỹ Lai chưa được tiết lộ, cũng không được khích lệ lắm trên quan điểm chính trị của người Mỹ. Xung đột về chủng tộc và các cuộc biểu tình phản chiến liên tục và quá nhiều ở các trường đại học trên toàn quốc đã làm chuyển hướng, làm loãng và tiêu tan đi quyết tâm của chính phủ đã có từ trước nhằm chấm dứt chiến tranh bằng một sự chiến thắng truyền thống nào đó.
Vụ chiếc tầu USS Scorpion (SSN-589) - một chiếc tầu ngầm xung kích nguyên tử - bị đắm một cách bí ẩn vào ngày 22 tháng Năm đã gây bối rối lớn cho Hải quân Hoa Kỳ nói chung và Toán Công Tác Thầm Lặng (Silent Service) nói riêng. Chưa đầy năm năm sau khi bị mất chiếc USS Thresher (SSN-593) và ngay tức thời sau khi chiếc USS Pueblo bị vây bắt, sự mất mát của chiếc Scorpion chỉ là một sự kiện phụ trội làm giảm sút thêm niềm tin của công chúng vào tiềm năng phục vụ của quân đội.
Việc chiếc USS Scorpion bị chìm là mối quan tâm lớn cho các cấp cao nhất của chính quyền và giới quân sự. Vụ này xảy ra chỉ khoảng 10 tuần sau khi chiếc tầu Xô Viết K-129 bị mất, một chuyện mà công chúng Hoa Kỳ không hề biết, và có những câu hỏi được đặt ra là liệu chiếc Scorpion đã bị đánh chìm bởi hành động thù địch hay thật sự là bị hỏng máy móc? Có khi nào người Nga đã hiểu lầm rằng chiếc K-129 đã bị tấn công bởi một tiềm thủy đĩnh hay lực lượng chống tầu ngầm nào đó của Hoa Kỳ, thành thử họ đã tấn công chiếc Scorpion để trả đũa chăng? Đó là câu hỏi mà Tổng thống và các cố vấn của ông đã đặt ra mặc dù vấn đề này không thể công bố ra ngoài được.
Ngay cả việc, dù đã có một số lượng lớn quân Bắc Việt và Việt cộng bị giết và bị bắt trong cuộc tấn công tết Mậu Thân, nhưng những người Mỹ trước kia vẫn tin tưởng vào lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo cho rằng đã thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm thì nay càng lúc họ càng thấy có quá nhiều rối rắm xảy ra. Ý chí quốc gia phải tiếp tục đầu tư xương máu và tài sản đến tận mạng vào Đông Nam Á đã nhạt dần đi. Quyết định của Tổng thống Johnson từ chối lời yêu cầu của Đại Tướng Westmoreland về việc cho bổ sung hai trăm ngàn binh sĩ và sự không tỏ thiện chí trong việc gọi thêm quân trừ bị cho thấy sự do dự của ông. Vấn đề này đã không tránh khỏi sự chú ý của các lãnh đạo ở Hà Nội, Bắc Kinh, và Moscow.
Việc Robert Kennedy bị bắn sau khi thắng cuộc bầu cử sơ bộ trong kỳ tranh cử Tổng Thống tại California vào buổi tối ngày 5 tháng 6 và cái chết của ông vào sáng sớm hôm sau đã khép lại mãi mãi hoài vọng luôn ấp ủ của nhiều người Mỹ, đặc biệt là những người phản chiến, hầu có thể trở lại những ngày tháng dường như là huyền diệu trong nhiệm kỳ tổng thống của ông anh trai.
Vào cuối tháng Sáu, cuối cùng căn cứ Khe Sanh đã chính thức được đóng cửa và bị bỏ phế. Ngày 1 tháng Bẩy, Đại tướng Westmoreland chuyển giao nhiệm vụ Chỉ Huy Yểm Trợ Quân Sự tại Việt Nam (MACV) lại cho Đại tướng Creighton Abrams. Đại tướng Westmoreland lên làm Tham mưu trưởng quân đội. Sự ra đi của ông khỏi vùng Đông Nam Á sau bốn năm nắm quyền chỉ huy cũng - ít nhất là trong thời khắc đó - đã làm tiêu tan đi hết các kế hoạch trọng yếu tấn công thẳng ra miền Bắc bằng các lực lượng bộ binh, tấn công vào các sào huyệt của Cộng sản bên Lào hay vào hệ thống hạ tầng cơ sở vĩ đại của con đường mòn Hồ Chí Minh
Nuôi dưỡng con quái vật
Khi Gerry Turley kết thúc thành công chu kỳ nhiệm vụ đầu tiên tại Việt Nam với tư cách là một sĩ quan Trung đoàn và sau đó là sĩ quan hành quân và Tiểu đoàn phó của tiểu đoàn 3, Sư đoàn 7 TQLC Hoa Kỳ; và khi John Ripley bàn giao quyền chỉ huy của Đại đội Lima, có thể nói là họ đã chiến thắng. Hay ít nhất là Turley và Ripley, cùng tất cả các TQLC khi chung sức với nhau đã nghĩ như vậy. Nhìn dưới bất cứ khía cạnh nào mà đầu óc người Mỹ hay người phương Tây có thể lý luận được thì đều thấy là người Mỹ đang chiến thắng tại Việt Nam. Ngày qua ngày rồi tháng qua tháng đã có thêm nhiều đồng đội bị hy sinh. Nhiều người khác nữa bị thương trầm trọng. Nhưng cũng trong những ngày tháng đó, trong những trận đánh hầu hết không có tên gọi, họ đã chiến đấu rất dũng cảm, đôi khi uyển chuyển nhưng không bao giờ chịu thua, và đã giành lấy vinh quang trong mỗi lần đụng độ. Trong tất cả những lần ra trận. Ít nhất là họ đã trở về nhà, trong lòng tin tưởng họ đã chu toàn nhiệm vụ, tin chắc là những sự hy sinh đều có giá trị và chiều hướng cuộc chiến đang thuận lợi cho họ.
Mùa xuân Praha
Mùa Hè năm 1968 không thể gọi là "Mùa Hè của tình yêu, phần hai"* nổi. Trong giai đoạn này của cuộc chiến, với những cuộc nổi loạn lan rộng về chủng tộc và biến động xã hội mà phần lớn có vẻ như được gắn liền với sự mục ruỗng thấy rõ của các chính sách ngoại giao và đối nội Hoa Kỳ, thật khó mà còn nhớ nổi là nước Mỹ không phải là nguồn gốc phát sinh duy nhất của tội ác. Các trang nhất trên báo, và tin tức truyền hình đều thiếu vắng tin tức về các cuộc đàn áp thực tế đang diễn ra tại một số quốc gia độc tài cảnh sát trị.
Sự gia tăng chậm rãi nhưng liên tục về các lợi ích tất nhiên của nền Tự Do và kinh tế tự do đang được thúc đẩy ở khắp mọi nơi tại Châu Á ngoại trừ Trung Cộng và Bắc Triều Tiên cũng không được tường trình đầy đủ. Trung Hoa Quốc Gia, Hồng Kông, Singapore, Nam Hàn, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Philippines, và đặc biệt là Nhật Bản, không ở đâu là không có vấn đề, nhưng tất cả đã cho thấy những dấu hiệu của sự tăng trưởng về kinh tế và sự phát triển của những nước không theo chủ nghĩa cộng sản.
Hầu hết người dân Nhật Bản đã vượt qua thời đại của "ba báu vật" (máy giặt, tủ lạnh và truyền hình đen trắng) và đang tiến vào thời kỳ “ba chữ C” (Car/Xe hơi, Color television/Truyền hình màu, và Cooler-Air conditioner/Máy lạnh-Máy điều hòa). Các nền kinh tế khác nhỏ hơn đang cố gắng bắt theo sau. Một khi đã được tiếp xúc với những tiện nghi của nền Tự Do và đạt mức sống căn bản cao hơn thì rất khó mà quay đầu ngược trở lại.
Cùng lúc đó và gần như không ai ở phương Tây để ý đến là sự thù hận ngày càng lớn giữa hai nước đàn anh chính của Bắc Việt. Đến tháng Tư năm 1968 Liên Xô đã bắt đầu điều động một phần ba lực lượng bộ binh tác chiến đấu hầu chống lại một lực lượng tương đương của Mao Trạch Đông cũng đang trải dọc theo đường biên giới chung dài bốn ngàn dặm. Thật không may cho Lê Bá Bình, George Philip, và tất cả các chiến hữu có liên quan là các chính trị gia Hoa Kỳ đã thiếu khả năng trong việc khai thác thuận lợi từ sự rạn nứt giữa hai cường quốc đỏ này.
Trong hơn hai mươi năm, "nữ thần" Tự Do đã bị cố tình nhốt chặt vào trong cái bình thần bởi Hiệp ước Warsaw - đưa ra bởi Liên Xô - tại những nơi như Hungary, Ba Lan và Đông Đức. Các nỗ lực để phá vỡ luôn luôn bị nghiền nát, bị áp đảo bởi cảnh sát và quân đội. Bấy giờ, vào mùa Hè năm 1968, các sinh viên Tiệp Khắc đã bị nhiễm con "vi trùng" tự do và dường như bệnh dịch này được truyền qua những người khác trong dân chúng và họ bắt đầu đứng lên đòi hỏi một sự thay đổi. Để đè bẹp căn dịch này, các thầy thuốc Liên Xô đã đề ra một toa thuốc mạnh là 600.000 quân lính và hàng ngàn chiến xa - một lực lượng đông hơn quân số của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong cùng thời điểm, hay bất kỳ lúc nào - để chữa con bệnh.
Phải mất ba tuần liều thuốc kiểu Liên Xô mới có hiệu quả trong việc "chữa bệnh" cho bệnh nhân. Hàng ngàn người Tiệp Khắc vô tội, hầu hết là tay không hoặc nếu có võ trang thì chỉ có các vũ khí thô sơ đã bị tàn sát mà không có một cơ quan truyền thông nào tường trình lại. Giống như các hành động giết người của quân Bắc Việt tại Huế chỉ sáu tháng trước đó, sự kiện này cũng chẳng gây ra sự bất mãn tại Hollywood và cũng chẳng có một cuộc biểu tình để lên án các hành động của Liên Xô tại bất cứ một khuôn viên Đại học nào đó tại Hoa Kỳ.
Trong khi đó, trở lại chiến trường - tháng Chín 1968
Đại đội Bravo và phần còn lại của 1/26 tiếp tục đụng trận trên khắp Vùng I Chiến Thuật và chuyển quân như những con cờ đến những nơi mà những người quyền hành ở trên cao quyết định họ cần có mặt tại chỗ nào trọng yếu nhất. Giống như trước đây, các cuộc hành quân không bao giờ kết thúc. Khác với hầu hết các binh sĩ đã biết chính xác họ còn bao nhiêu ngày nữa trong chu kỳ nhiệm vụ của họ, George Philip còn chưa khởi đầu đồng hồ đếm ngược thời gian để hồi hương.
Tính chất và cường độ tác chiến bao gồm những cuộc đụng độ nhỏ với súng cá nhân cho tới các trận đánh lớn mà cả Tiểu đoàn phải tham gia vào. Đó là những lúc mà George chứng kiến được là trong hầu hết các trường hợp, mọi chuyện có vẻ ăn khớp với nhau, sự phối hợp các loại vũ khí với nhau như không quân và pháo binh (và hải pháo nếu các chiến hạm ở gần bờ), mọi bộ phận đều cố gắng hết mức để yểm trợ cho bộ binh, y chang như những gì "quảng cáo" trong trường Huấn Luyện Căn Bản.
Trong suốt thời gian đại đội Bravo ở ngoài chiến trường, thường thì những kỳ nghỉ ngắn ngủi lại trở nên là giai đoạn đáng nhớ nhất. Với sự đều đặn và vật vã trong suốt thời gian lăn lội trong rừng bụi, ngoại trừ những lần đụng độ lớn hay có chuyện xấu xảy ra cho đồng đội thân cận, những gì còn lưu lại trong hồi ức của một người chiến binh là những điều nhỏ nhoi, thỉnh thoảng lại là những điều hay, có khả năng phá vỡ được cái nhịp đều đặn thường ngày.
Không rõ vì lý do gì đối với thiếu úy George Philip, và cũng giống như những ngày khi họ được lệnh di chuyển đi từ nơi này qua nơi khác bởi các ông thần vẽ kế hoạch hành quân, có một hôm họ đang làm việc ở một nơi nào đó thuộc phía Nam của Đà Nẵng rồi, không một lời giải thích, lại được lệnh lên xe vận tải bốc thẳng từ chiến trường về hậu cứ tại Đà Nẵng.
Luôn luôn là một sự bất ngờ khi trở về từ mặt trận, được trở lại với những người còn sống, còn thở, được tiếp xúc với những tên TQLC chưa bao giờ ra ngoài chiến trường, những tay được nhận thư từ hằng ngày, được "ị" trong nhà cầu đàng hoàng, được tắm rửa đều đặn, được mua sắm tại PX hay được đi phố với các "em." Những tên này được ngủ trên giường tử tế và thường xuyên được ăn mỗi ngày hai bữa nóng với trái cây thật sự cùng bánh mì và sữa tươi. Nhóm TQLC rừng rú, những tay TQLC thứ thiệt gọi bọn này là bọn REMFs (Rear Echelon Mother F...s). Bọn này rất dễ nhận ra. Họ đi giày bốt láng bóng và quân phục phẳng phiu còn mới tinh. REMFs thường mày râu nhẵn nhụi và béo tốt hơn nhóm đồng đội bụi đời thiếu thốn bơ sữa và thức ăn. Nhóm TQLC thứ thiệt thường vừa có cảm giác bực mình ra mặt nhưng đồng thời cũng thầm ganh tỵ với bọn REMFs đó.
Vào cái ngày mà George và hầu hết các sĩ quan Bravo khác đến Đà Nẵng thì trạm dừng chân đầu tiên của họ là một trụ sở câu lạc bộ sĩ quan tại thành phố này. Giống như vừa trở về sau vài tuần ngoài mặt trận, mà họ đã như vậy, mình mẩy hôi hám mùi rừng rú và mồ hôi đã thấm vào tận da thịt và quân phục, họ bị dính chấu như dân da đen lọt vào phòng họp của bọn KKK và bị đối xử đúng y như vậy.
Sau khi sắp hàng và mỗi người chất đầy đĩa thức ăn của mình với một khối lượng không thể nào ăn hết nổi, sau khi đã thưởng thức vài ly sữa tươi mát lạnh và "Bug Juice" ** lúc đang sắp hàng, rồi lại rót đầy thêm ly trước khi tìm chỗ ngồi, xa bọn REMFs, nhóm George Philip nhận ra một điều khá đặc biệt.
Trong vô số những chuyện căn bản mà các chàng trai trẻ bị thiếu thốn do phải lặn lội hằng tuần trong những khu rừng già và các đồng lúa hôi hám cùng khắp Việt Nam là cái niềm vui thật đơn giản được ngắm nhìn và nói chuyện với một phụ nữ Hoa Kỳ bằng xương bằng thịt.
Những gì có sẵn cho các binh lính và TQLC ngoài tiền tuyến về phương diện liên hệ với phụ nữ tại Việt Nam, nếu đàng hoàng thì bọn REMFs đã dành mất rồi. Họ chỉ thường có cơ hội giao dịch với vài "bà má" luống tuổi để họ dọn dẹp chỗ ở hay giặt giũ quần áo, hoặc nếu có thân mật hơn chút nữa thì là một cuộc trao đổi tình dục có thể đưa đến chuyện bị mắc một vài chứng bệnh xã hội nào đó. Còn khả năng được tiếp xúc với một hay nhiều phụ nữ Hoa Kỳ, các nữ y tá, tiếp viên hàng không, phóng viên, hay bất kỳ lãnh vực nào luôn luôn là một chuyện đáng nhớ bởi vì nó ít khi nào xảy ra.
Ngay lúc George và các sĩ quan khác của Đại đội Bravo đã vào bàn rồi và anh nhìn lên thì chợt bàng hoàng khi thấy ba người phụ nữ. Những phụ nữ người Mỹ. Họ là nhóm y tá Hồng Thập Tự Hoa Kỳ "Búp Bê Donut," có lẽ đang làm việc cho “USO” (United Service Organizations), và dường như muốn bước về hướng các sĩ quan của đơn vị Bravo đang ngồi.
Mang thức ăn cho họ và ngoan ngoãn đi theo sau là ba anh chàng sĩ quan cấp úy REMFs mặt mũi nhẵn bóng, quần áo ủi hồ phẳng phiu. Những tay này chưa nhận ra nhóm của George. Anh ra hiệu cho đồng đội chú ý, ngưng ăn uống để ngắm cái phép lạ đang diễn ra. Cả toán sĩ quan Bravo đồng loạt thẳng lưng lại và sửa soạn cho một cuộc tiếp chuyện văn minh, bất kỳ kiểu nào cũng được. Cả bọn ý thức được là bề ngoài và tình trạng vệ sinh của họ còn thiếu sót đáng kể nhưng họ tin vào sự độ lượng vượt mức của các kiều nữ "Florence Nightingale" thời đại mới này. Vào thời điểm này của chu kỳ nhiệm vụ, họ sẵn sàng làm bất cứ thứ gì để tạo sự chú ý của nữ giới. Nhóm "búp bê Donut" không hẳn tuyệt đẹp như tài tử Ann Margret nhưng thời gian dài lặn bờ lặn bụi đã làm cho tiêu chuẩn của gã đàn ông sút giảm nhiều lắm. Trang bị đầy đủ các thứ và y phục cần thiết, ít nhất họ là phụ nữ.
Phút chờ mong ngắn ngủi thật là tuyệt vời. George Philip cảm thấy mình như một cậu bé lớp bẩy phải lòng cô nữ sinh trung học trong toán múa "cheerleader." Tất cả chỉ xảy ra trong vòng một vài giây đồng hồ thì thực tế phũ phàng chụp xuống. Bọn REMFs nhận ra sự hiện diện của các sĩ quan Đại đội Bravo nên đột ngột dẫn nhóm "búp bê Donut" đi qua khu vực khác, lịch sự hơn trong câu lạc bộ. Thật là một sự bẽ bàng. Nhóm sĩ quan Bravo tiếp tục ăn uống lại, miệng lẩm bẩm những lời nhận xét khác nhau nhưng cùng một nghĩa chung là "bọn chó đẻ REMFs..."
Mặc dù chẳng ai bàn tán gì nhiều về độ thâm niên của các thiếu úy nhưng khi George bắt đầu thời kỳ sáu tháng của anh với tư cách sĩ quan đề lô của B 1/26, thì anh đã trở thành một TQLC khá dày dạn kinh nghiệm, ít nhất là theo tiêu chuẩn của người Mỹ. Bởi đã sống sót được từng ấy thời gian nên đối với các lính mới nên anh đã là hàng trưởng lão. Kinh qua hàng chục lần xáp trận rồi nên chẳng có chuyện gì có thể làm anh giao động được nữa. Anh có thể bung ra trong nháy mắt một khối lượng hỏa lực khủng khiếp gieo rắc sự chết chóc và tàn phá một cách chính xác. Anh đã ghi nhận lời khuyên của Đại tá Helmer, đã áp dụng nó và truyền lại cho những người khác.
Vào tháng Chín năm 1968 George Philip, anh bạn Matt Dillon, và nhiều người khác trong nhóm kỳ cựu TQLC của Đại đội Bravo bị mắc một chứng bệnh ngoài da trong rừng rậm - một loại bệnh kỳ cục chưa ai biết là thứ gì, chỉ tấn công ngoài da, đặc biệt là những vùng nhậy cảm. Cách chữa trị đúng duy nhất là phải từ giã Việt Nam và đến một nơi nào đó an lành hơn như quê nhà chẳng hạn.
Mặc dù có những cơ hội được ăn uống thả dàn như trong câu lạc bộ sĩ quan Đà Nẵng nhưng hiện nay George chỉ cân nặng vào khoảng từ 120 tới 125 cân Anh, sụt khá nhiều so với 150 cân trước kia, tuy lúc đó anh vẫn bị coi là gầy. Bề ngoài của George bây giờ trông khá giống một trong những ông già vừa thoát ra khỏi trại Đức quốc xã Auschwitz hay Buchenwald vào giữa năm 1945. Toàn thân anh được bôi vàng bởi một thứ kem gì đó đáng khả nghi mà các y sĩ quân đội hay dùng để chữa tất cả các loại bệnh ngoài da. Nếu mẹ anh mà thấy được bộ dạng anh bây giờ ra sao thì chắc bà sẽ bị đứt gân máu mất.
Trở lại Pháo đội Alpha 1/13
Vào khoảng giữa chu kỳ nhiệm vụ 13 tháng, theo thông lệ đối với các sĩ quan pháo binh, đã đến lúc George phải thuyên chuyển về lại pháo đội trọng pháo. Nhiệm vụ này tuy không hẳn là dễ dàng gì nhưng thật khác xa, không khắc khổ và nguy hiểm như thời gian nửa chu kỳ đầu nhiệm vụ lặn lội trên các con đường mòn và ruộng lúa với đám lính bộ binh.
Tháng 12 năm 1968 là một cái mốc đã đánh dấu tháng thứ 45 kể từ khi TQLC Hoa Kỳ đổ bộ lên bờ biển Việt Nam và bắt đầu các nỗ lực đánh lớn của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á.
Vào tháng thứ 45 trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, miền Nam Hoa Kỳ đang trên bờ của sự sụp đổ. Tướng William Tecumseh Sherman, tay sát nhân đối với dân miền Nam mà tên tuổi xấu xa vẫn còn được nhắc mãi đến một trăm năm sau ở dưới lằn ranh Mason-Dixon, đang tụ tập quân lính tràn xuống Georgia và sau đó nhanh chóng chuyển qua các tiểu bang Carolinas, tiêu diệt hết mọi thứ trên đường tấn công của hắn.
45 tháng sau khi Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức vào tháng Tư năm 1917, "cuộc chiến để chấm dứt tất cả các cuộc chiến" đã diễn ra hơn hai năm rồi. Người Mỹ đang sửa soạn để hưởng một sự thịnh vượng chưa từng có bao giờ và múa may theo các điệu Jitterbug và Charleston suốt cho đến thập niên 1920 đầy sinh động.
45 tháng sau khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, Hoa Kỳ đang chuẩn bị để "bắn phát súng ân huệ" bằng cách thả trái bom nguyên tử "Fat Man" xuống Hiroshima và "Little Boy" xuống Nagasaki. Chán chiến tranh rồi, người Mỹ lại một lần nữa hướng về hòa bình - điều mà sau đó tỏ ra là hoang tưởng và không thực tế - bằng cách tiêu xài hết tiền bạc dành dụm được trong chiến tranh vào những thứ được sản xuất bởi một nền kỹ nghệ đã thoát ra khỏi các sự trói buộc trong thời chiến.
45 tháng sau khi các chiến xa T-34 do Liên Xô viện trợ lăn bánh lần đầu tiên vào Seoul, hiệp ước ngưng bắn đã có hiệu lực được chín tháng rồi.
45 tháng sau khi khởi đầu cuộc chiến tại miền Bắc Á Châu, ca sĩ Bill Haley và ban nhạc Comets đã thâu xong bản "Rock Around the Clock."
Khi năm 1968 sắp kết thúc, ngay cả với việc quân Bắc Việt và Việt Cộng đã chết chồng lên nhau như củi khối, cũng không có bằng chứng nào khả dĩ để người Mỹ tại hậu phương nghĩ rằng phe ta đang thắng thế trong trận chiến này khi nó đang đi vào một cái năm đẫm máu và tốn kém nhất trong suốt cuộc chiến tranh. Mặc dù đã nỗ lực tối đa trong suốt 12 tháng đó, chỉ cần liếc vào bản đồ là thấy chẳng có gì thay đổi khá hơn. Các cuộc đụng độ vẫn xảy ra khắp nơi trên toàn cõi Việt Nam Cộng Hòa. Cả nước bắt đầu mệt mỏi thấy rõ vì sự cam kết đã chỉ mang lại một kết quả cay đắng. Nếu như quân Bắc Việt và các lực lượng còn lại của Việt Cộng có mất tinh thần chiến đấu hay không thì với cấp bậc của George Philip và đồng đội, họ cũng không thể biết được.
Cuộc sống vẫn tiếp diễn/Bình gặp Cầm/Cuộc chiến của người cha
Trong những tháng tiếp theo thời gian phục vụ tại cầu Bình Lợi, tiểu đoàn 3 và tất cả các đơn vị lưu động khác của TQLC Việt Nam tiếp tục nhận nhiệm vụ ở bất cứ nơi nào cấp trên quyết định rằng sự hiện diện của họ là khẩn thiết nhất. Tuy nhịp độ hành quân khá lộn xộn nhưng ai nấy cũng đều tuân theo một phương pháp và thông lệ nào đó.
Lợi dụng những khoảng thời gian ngắn lúc Tiểu đoàn 3 luân chuyển về Thủ Đức nhằm tái trang bị và bổ sung quân số, Đại úy Bình tranh thủ nhanh chóng về nhà thăm gia đình và bạn bè. Giống như mọi lần và theo lệnh cấp trên, anh luôn luôn đi với một toán vệ sĩ và tà-loọc bây giờ đã cảnh giác hơn đối với sự nguy hiểm rình rập sau biến cố Tết Mậu Thân vừa qua. Sự hiện diện và đi lại của anh khiến cho hàng xóm vừa cảm thấy nghiêm trọng, lại vừa yên tâm hơn vì nhiều gia đình cũng có con em đang phục vụ trong quân ngũ.
Đối với những người Mỹ chỉ thấy chiến tranh trên truyền hình hoặc đọc về nó trong các tập san và báo chí, nhận thức của họ về cuộc sống thường nhật ở Việt Nam gần như không thể nào hiểu nổi. Với hầu hết những người này, mọi miền đất nước dường như tràn ngập VC và lính Bắc Việt, dày đặc các nhà sư Phật Giáo chỉ tìm cớ để châm lửa vào bộ tăng bào màu vàng nghệ của họ. Những đường phố chính trong thành phố thì đầy rẫy những tên bán dạo lừa đảo và gái điếm. Chuyện mạch sống vẫn trôi như từ trước tới nay chỉ được biết đến bởi những người đang sống thực tế trong đó. Và rồi cuộc sống, trong mọi hướng đi và trong mỗi chu kỳ, vẫn diễn ra đều đặn với chỉ một vài thay đổi nhỏ.
Lễ cưới Yến, em gái của Bình vào ngày 17 tháng 11 năm 1968 đặc biệt đáng ghi nhớ đối với vị đại úy TQLC dày dạn trận mạc này. Yến làm việc trong văn phòng kế toán của Trung Tâm Buôn Bán PX quân đội Hoa Kỳ từ năm 1966. Trong số các bạn bè thân nhất của cô, Bành Cầm là một phần tử trong cái nhóm nhỏ phụ nữ trẻ hấp dẫn và đang tuổi cập kê. Giống như mọi cô em hãnh diện về anh của mình, Yến đã liên tục ca ngợi lòng tốt và sự hào hùng của ông anh mình với Cầm từ nhiều tháng trước khi đám cưới. Bình hầu như lúc nào cũng phải đi hành quân xa còn mẹ của Cầm vẫn giữ lề lối xưa thành thử họ chưa có cơ hội nào để được chính thức giới thiệu với nhau. Đám cưới của Yến đã tạo một cơ hội hay nhất. Phần còn lại, như họ vẫn thường nói, chỉ là duyên số.
Mặc dù chiến thắng ở Đông Nam Á có vẻ khá mơ hồ, không phải tất cả mọi thứ vào tháng Mười Hai năm 1968 đều báo động sự sụp đổ của văn minh Tây phương. Đất nước đã thật sự vui mừng khi thủy thủ đoàn chiếc USS Pueblo được trở về, những người mà đã phải chịu đựng suốt cả 11 tháng trời dưới sự tra tấn và hành hạ trong tay bọn Bắc Triều Tiên.
Mặc dù quân đội Hoa Kỳ có vẻ bị lún sâu vào các bãi sình lầy và ruộng lúa tại Việt Nam nhưng vụ phóng phi thuyền Apollo 8, lần đầu tiên con người tiến hành bay vào quỹ đạo của mặt trăng đã đánh dấu tính ưu việt về khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ. George Philip và một số ít đồng đội TQLC đã nghe được tin này qua hệ thống truyền thanh của quân đội Hoa Kỳ vào ngày Giáng Sinh, tức chiều hôm trước Giáng Sinh tại quê nhà. Họ nghe được những lời chào mừng Giáng Sinh bất ngờ của ba phi hành gia Apollo 8 cách xa hằng trăm ngàn dặm từ trong cái phi thuyền tý hon của họ.
Trong lần phát sóng có lẽ đã được chú ý nhiều nhất lúc bấy giờ, các phi hành gia William Anders, Jim Lovell, và Frank Borman mỗi người đọc một đoạn ngắn từ cuốn "Sáng-thế Ký" (Genesis) của Cựu Ước. Anders bắt đầu:
Đối với tất cả những người trên trái đất phi hành đoàn Apollo 8 chúng tôi có một thông điệp muốn gởi đến các bạn: Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời đất. Vả, đất là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực; Thần Ðức Chúa Trời vận hành trên mặt nước. Ðức Chúa Trời phán rằng: Phải có sự sáng; thì có sự sáng. Ðức Chúa Trời thấy sự sáng là tốt lành, bèn phân sáng ra cùng tối.
Lovell đọc tiếp:
Ðức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày; sự tối là đêm. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhứt. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng phân rẽ nước cách với nước. Ngài làm nên khoảng không, phân rẽ nước ở dưới khoảng không cách với nước ở trên khoảng không; thì có như vậy. Ðức Chúa Trời đặt tên khoảng không là trời. Vậy, có buổi chiều và buổi mai; ấy là ngày thứ nhì.
Borman kết luận:
Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Những nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi, và phải có chỗ khô cạn bày ra; thì có như vậy. Ðức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt lành. (Genesis 1:1-1:10)
Và từ phi hành đoàn Apollo 8, chúng tôi xin chấm dứt với lời chúc một đêm ngủ ngon, chúc may mắn, một mùa Giáng Sinh vui vẻ, và xin Thiên Chúa ban ơn cho tất cả mọi người... tất cả nhân loại sống bình yên trên trái đất." (nguồn: NASA, Wikipedia).
Thật khuya trong đêm Giáng Sinh hôm đó, George ngồi bên ngoài hầm chỉ huy nhìn lên mặt trăng đã gần tròn, mơ màng như các thanh niên trẻ vẫn thường làm. Anh nghĩ về những người thân, về các anh chị em, về chiến tranh, về các đồng đội mà anh đã thấy là họ ngã xuống hoặc bị thương. Anh nghĩ thật kỳ lạ là gần nửa triệu thanh niên Mỹ đang chiến đấu ở Việt Nam trong những hoàn cảnh thô sơ nhất trong khi có ba người khác thì đang bay vòng quanh mặt trăng. Thật là vô ích nếu anh cố hiểu những gì không thể hiểu nổi. Anh miên man suy nghĩ thêm, suy nghĩ mãi rồi trở vào hầm trú ẩn.
Giống như các TQLC đã quá bận rộn đánh nhau với quân Bắc Việt đến nỗi không nghe được lời phán tháng Hai của Walter Cronkite rằng họ sắp bị khốn khổ tại Khe Sanh tới nơi rồi, thật cũng là một điều hay là hầu hết các binh sĩ tại Việt Nam đã tránh không phải nghe đến kết quả một cuộc thăm dò năm ngoái cho thấy là nhân vật mà các sinh viên đại học tại Hoa Kỳ hâm mộ nhiều nhất lại là Che Guevara. Năm 1968 đã sắp chấm dứt, George Philip vừa được thăng cấp lên Trung úy, vậy mà mỗi lúc liên tưởng đến những gì đã xảy ra và có thể sẽ xảy ra, anh đều trở lại tâm trạng trước kia, khi anh vẫn thường nghĩ rằng "đây không phải như là cuộc chiến của cha mình."
__________________________________________________________
* Mùa Hè năm 1967, mệnh danh là "Mùa Hè của Tình Yêu," đã được liên kết chặt chẽ với phong trào hippy và phong cảnh của San Francisco, và đã trở thành bất tử bởi mùa hội Monterey Pop Festival năm 1967 cùng với các bài hát như "San Francisco - Be Sure to Wear Some Flowers in Your Hair" của Scott McKenzie.
** Bug Juice - cái tên dùng để mô tả loại nước uống có pha mùi như kiểu Kool-Aid thường được phân phát trên tầu, trong các câu lạc bộ, ngay cả cho binh lính ngoài mặt trận nữa trước khi có kỹ thuật làm các loại thức uống có ga. Bug Juice về căn bản chỉ là nước đường có màu nhân tạo. Bug Juice cũng là tên của một loại thuốc đuổi muỗi chứa trong những lọ nhựa nhỏ mà các TQLC và binh lính gắn lên nón sắt bằng những sợi băng cao su.
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2015