Trung tuần tháng Tám, năm 2006, trong một
tiệc cưới, tôi ngồi cận Bác Sĩ B. Q. M.,
bạn cùng khóa.
– M. Toa c̣n nhớ bị nhốt ba ngày trong conex
không?
– Đâu phải ba ngày. Một tháng với ba
ngày.
– Mà toa có viết cái thơ vỏn vẹn chín
chữ đó không?
– Moi đâu có viết. Tụi nó chỉ nghi thôi
mà nhốt moi suưt toi mạng.
Đêm hôm đó, bổng nhiên cả một khung
trời dĩ văng hiện lại trong trí tôi.
NHÂN DÂN CHO LÊN LON.
Đài phát thanh thông báo lệnh của
Thượng Tướng Trần Văn Trà, chủ
tịch Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh (tên
mới của Sài G̣n): Các sĩ quan chế độ cũ
phải tŕnh diện “học tập cải tạo”.
Những sĩ quan cấp thiếu tá trở lên phải
đi tŕnh diện từ ngày thứ Bảy 15 và Chủ
Nhật 16 tháng 6, 1975, thời gian “cải tạo” là 30 ngày
và điạ điểm tŕnh diện là các trường
học rải rác khắp Sài g̣n, Chợ lớn, Gia
định như Petrus Kư, Trưng Vương, Hồ
Ngọc Cẩn, Don Bosco…
Gia đ́nh tôi ở đường Nguyễn Trăi,
Quận 5, gần nhà thương Phước Kiến,
căn phố lầu, tầng một và hai. Tầng
trệt làm pḥng mạch. Khuya thứ Hai 7-6-75 (hết
hạn tŕnh diện học tập cho cấp tá và
tướng), có người nhận chuông. Nh́n đồng
hồ: Một giờ sáng. Tôi xuống mở cửa,
bực và lo. Không phải một, mà năm người:
Bốn bộ đội với súng AK và một
người đeo K54 mà tôi đoán là hạ sĩ quan.
Vừa bước vào bên trong, hắn hỏi ngay:
– Anh tên Nguyễn Sơ
Đông phải không?
– Phải.
– Sao anh chưa đi tŕnh diện học
tập?
– Đài ra thông cáo: cấp thiếu tá trở lên
tŕnh diện, tôi chỉ là đại úy thôi.
Tôi đưa cho hắn xem giấy tờ
của Cao Đăng Chiếm, đại tá Công An/T́nh Báo
Cộng Sản kư.
– Tôi có lịnh mời anh đi tŕnh diện
học tập ngay.
Làm sao tôi cải lại được với
AK và K54:
– Lệnh gấp như vầy, các anh phải
cho tôi sửa soạn áo quần, thuốc men, thực
phẩm chớ…
Vừa nói tôi vừa bước trở lạI
hướng cầu thang để lên lầu.
– Không, anh không được đi đâu
hết. Muốn ǵ, gọi người nhà anh lấy.
Đành chịu thôi. Bà xă tôi vừa sắp
xếp áo quần, thuốc suyễn, thức ăn
tiền bạc cho tôi, vừa khóc thút thít. Trước khi
bước ra cửa, tôi c̣n b́nh tĩnh dặn:
-“Má” đừng sợ..
Nếu họ muốn giết th́ chắc đă giết
rồi chớ c̣n dẫn đi đi đâu.
Ra khỏi nhà, tôi đi giữa, bốn
người bộ đội đi bốn góc. Th́ ra chúng
dẫn tôi xưống Chi Cảnh Sát chợ Hoà B́nh. Vào trong
Chi Cảnh Sát, đă thấy ba người tôi đoán là
sĩ quan ngụy như tôi. Đến gần ba giờ
sáng, lục đục bộ đội dẫn về thêm
hai người nữa. Cộng với tôi là sáu. Chất lên
xe cảnh sát cũ (màu xanh và trắng),
chở lên Ty Cảnh Sát Quận Năm, đường Đồng
Khánh. Chúng tôi được đưa vào một pḥng
nhỏ có vài cái bàn, mươi cái ghế và bốn năm
người ngồi chờ. Mỗi người
được phát một tờ giấy học tṛ.
Khai lư lịch. Cấm “liên hệ” với nhau.
Gần bốn giờ sáng, một công an, có vẻ là sĩ
quan đến, ngồi sau một bàn viết, kê ở góc
pḥng, gọi từng người, “khai thác“
lại.
– Anh khai là trung úy. T́nh báo nhân dân bảo anh là
thiếu tá. Tại sao?
– Dạ, v́ tôi mang lon Hải Quân, bà con nh́n không ra
chớ tôi mới 23 tuổi, làm sao lên thiếu tá
được?
– Anh th́ sao? Anh khai là binh nh́ đào ngũ?
– Dạ phải, tôi thuộc Sư Đoàn 5
Bộ Binh ở Lai Khê. Tôi đào ngũ.
V́ tôi muốn o con nhỏ ở trong xóm, nên tôi mang
đại lon thiếu tá giả. Tôi học chưa hết
lớp ba, làm sao làm thiếu tá được?
– Anh th́ sao? T́nh báo nhân dân “nhất trí“ anh là thiếu tá mà? Hắn hỏi tôi.
– Tôi mang lon đại úy từ năm 68; lúc sau
này, mỗi lần về thăm nhà, tôi mặc dân sự, bà
con tưởng tôi lên thiếu tá rồi, chớ thật tôi
c̣n là đại úy.
Mỗi người đều có một lư do
riêng. Cuối cùng, tên công an bảo:
– Các anh xác nhận không phải sĩ quan cấp
tá ngụy phải không?
– Dạ đúng.
– Khai mang “cách mạng” kỷ luật nặng
lắm. Được, tôi cho các anh về chờ lệnh.
Lục tục, chúng tôi mang đồ đạt
hướng ra cổng Ty Cảnh Sát Quận Năm.
Bổng tên công an gọi lại. Hồi
hộp. Hắn bảo: Mới 5 giờ sáng, c̣n giới
nghiêm (cho đến 6 giờ), mấy anh ra đường
bộ đội bắn chết. Thế là xe
cảnh sát chở tôi về nhà. Hú vía. Nhận chuông. Bà xă tôi
tưởng tôi “hiện thân về”.
TỰ CHUI VÀO RỌ
Chủ Nhật 23–6-75, khoảng một giờ
trưa, bạn tôi, Nguyễn Lộc Thọ, giáo sư
Trường Quốc Gia Nghĩa Tử đến chở
Honda tôi đi tŕnh diện “học tập cải tạo”.
Lần này, tŕnh diện đúng ngày, đại
úy thật, 10 ngày. Địa điểm: Trường
Nữ Trung Học Trưng Vương, gần Sở Thú.
Sắp hàng. Vai mang túi áo quần, thuốc men… và
một cái vơng nylon.
Đến lượt tôi, đứng
trước bàn một bộ đội tôi không biết
cấp bực. Hắn ngồi ngay ngắn, nh́n tôi khá lâu và
hỏi:
– Anh đứng trước cán bộ cách
mạng mà c̣n mang kính?
Tôi chưa kịp hiểu anh ta nói ǵ, đă nghe
lệnh:
– Gỡ kính xuống.
Gỡ th́ gỡ. Tôi là kẻ bại trận mà.
Tôi gỡ kính, cầm tay, không dám
để trên mặt bàn.
– Ngồi xuống.
Ngồi th́ ngồi. Giờ tôi như cá nằm
trên thớt. Hắn đưa tôi tờ giấy, bảo
khai lư lịch. Tôi cầm tờ giấy, chậm răi:
– Kính thưa… Tôi không biết gọi anh ta bằng
ǵ? Đồng chí th́ không đúng và không được.
Cấp bực th́ tôi không biết. Gọi bằng ông sợ
bị mắng.
– Cho phép anh gọi tôi là cán bộ.
-Vâng, kính thưa cán bộ, kính tôi mang là kính
cận, tṛng trong vắt, không phải kính râm. Tôi cố
đọc trọ trẹ “râm-dâm”, sợ cán bộ không
hiểu nếu tôi phát âm theo “Nam kỳ
rặc” là “râm”. Gọi là kính mát, chắc chắn hắn
không hiểu rồi. May mà tôi không mang verre fumé.
Cán bộ ra lịnh tôi gỡ kính xuống, tôi
không thấy đường để viết, đọc
ǵ hết. Hắn nh́n tôi, nh́n sang kính tôi đang cầm tay, gật đầu:
– Cho phép anh mang kính lại.
Tôi biết, từ đây đời ḿnh sẽ
c̣n nhiều giông băo.
Tập họp chia nhóm: 18 người thành
một A. Tôi cũng không thắc mắc tại sao 18, không
phải là 15 hoặc 20. Bốn A thành một B. Tôi thuộc
A8 B12. Lên lầu, vào lớp học, tạm trú.
Tôi đă đến trường Trưng
Vương nhiều lần rồi. Trong những năm
ở Đại học Y khoa ở số 28
Đường Trần Quư Cáp, tôi là giáo sư dạy giờ,
môn vạn vật, Trường Petrus Kư. Năm nào cũng
đi gác thi, chấm thi Tú tài I và ̀I ở Petrus Kư, Gia Long, Chu
văn An hoặc Trưng Vương. Đâu ngờ, đây
là lần cuối cùng… vào Trưng Vương “Tử
Cấm Thành”.
Khoảng 5 giờ chiều, lệnh xuống sân
lănh cơm. Trời! Cơm do Nhà hàng Đồng Khánh mang
đến. Tôi nghĩ là phải ngon lắm v́ nh́n cũng
giống cơm chiên Dương Châu mà mỗi lần đi
dự tiệc cưới ở Đồng Khánh
người ta hay đăi. Nhưng nuốt cho đỡ
đói thôi chứ có biết mùi vị ǵ. Nh́n chung
quanh, anh em đồng cảnh… cũng lặng thinh. Mỗi
người một tâm sự, ánh mắt lo âu.
Ăn xong tập họp. Nghe lệnh.
Những điều cấm không được làm… không
được nói.
Màn đêm từ từ buông xuống.
Trở lên lầu, t́m cách giăng mùng giữa các
bàn học, ngủ đỡ, qua đêm.Trằn trọc măi.
Bao nhiêu câu hỏi. Tương lai về đâu?
Bao nhiêu lo âu.
Nửa khuya, có tiếng tu huưt, lệnh trở
xuống sân. Tập họp theo
đơn vị A, B. Nhận lệnh mới. Di chuyển.
Tuyệt đối cấm, cấm, cấm. Nhiều
điều cấm lắm. Anh nào ra khỏi hàng là bắn
bỏ. Tḥng lọng ở cổ từ từ siết
lại.
Xe Motorola chờ sẳn trước cổng
Trường Trưng Vương. Lên xe.
Kiểm soát. Tấm bạt mui xe khép kín
lại. TrờI tối càng thêm tối om…
như đời của kẻ bại trận. Có tiếng
AK đạn lên ṇng. Xe chuyển bánh. Quo vadis?
Sau nhiều lần quẹo, xe
chạy thẳng và êm hơn. Ḿnh ra xa lộ. Anh ngồi
ngoài cũng hé chút mui cố nh́n và định hướng.
Chạy măi đến sáng thứ hai 24-6-75.
“Ê, ḿnh đến Long Khánh rồi đó mấy
cha. Vừa qua khỏi vườn cây của Đại
Tướng Lê Văn Tỵ, chạy nữa. Đi đâu
cà?” Cuối cùng, bộ đội mở tấm bạt.
Xuống xe. Hai chân tê cóng. Anh nào đó nh́n
ra: Đây là Long Giao, doanh trại cũ của Trung Đoàn
48, Sư đoàn 18 Bộ Binh, trước là căn cứ
Black Horse của Mỹ.
Tập họp. Mỗi B gồm 72 người
vào một nhà, gọi là lán, do một cán bộ gọi là
quản giáo chỉ huy. Nhà trống, đầy bụi rác.
Đủ thứ rác.
“Thế ḿnh ở đây à?” Có giọng ngây ngô
hỏi.
– “Ngủ ở đâu?”- “Nằm ngay trên sàn nhà mà
ngủ”. Nhưng trước hết phải t́m cách quét cho
sạch cái sàn nhà đă.
Một đoạn đời mới từ
đây.
ĐỜI SỐNG VÔ SẢN
Mỗi người mang theo
một túi vải, trong chứa áo quần, thuốc men.
Đứa nào cũng có môt lon “gô”(lon
sữa Guigoz bằng nhôm). Riêng tôi c̣n có thêm mấy
lưỡi câu, dây nylon và cái vơng nylon có mùng luôn. Thuốc
suyễn uống và bơm. Hơn 100 viên chloroquine. Mỗi
tuần một viên, tôi sẽ chịu đựng
được trên hai năm. Tôi không tin ḿnh sẽ đi 10
ngày, nhưng tôi dự trù có sáu tháng thôi. Đâu ngờ
phải đi ở tù lâu quá vậy!
Mỗi người được 40 cm sàn
ciment. Tôi nằm đong đưa trên vơng, không đụng
ai và rộng thêm chỗ cho hai bạn tù bên phải và trái.
“Khôn dại cùng chung ba
thước đất
Giàu sang chưa chín một nồi kê!”
Vua Tự Đức mà c̣n cam ba thước
đất, ḿnh được bốn tấc… mà c̣n than
nổi ǵ?
Tổ chức thành “tổ” (A) và lán (B) chia phiên bửa
củi, kéo nước giếng, nấu ăn (gọi là anh
nuôi) hoặc ra ngoài trại lao động. Thật t́nh,
đối với những người không bị
đưa ra Bắc, phần lớn là sĩ quan cấp úy,
th́ lao động không đến mức
“cực h́nh, khổ sai” nhờ nhiều yếu tố.
Bắt đầu cuối năm 1976, đầu 1977,
họ nhận được thơ, thực phẩm,
thuốc men của gia đ́nh, nâng đỡ tinh thần
lắm. Họ c̣n trẻ, trên
dưới hoặc vừa bốn mươi ngoài, thân
thể c̣n tráng kiện; thời tiết trong Nam không
khắc nghiệt như ở thượng du Bắc
Việt, trại Hà Nam Ninh, Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời…
tối đến lạnh xuống 3-4 độ Celsius;
mỗi lần ra khỏi trại làm lao động gặp
dân địa phương c̣n có cảm t́nh với
“ngụy”, nhiều khi họ giúp cho thức ăn như
chuối, bắp cũng thấy “ấm ḷng”.
Đói vẫn cứ đói, mỗi ngày 400 gram
gạo không thấm vào đâu. Tuy nhiên không ai than phiền ǵ
v́ bên ngoài, gia đ́nh ḿnh cũng vất vả lắm.
Chỉ lo cho vợ con. Lấy ǵ sống? Đi kinh tế
mới. Qua mấy lần đổi tiền rồi c̣n ǵ
đâu!
ĐỜI SỐNG
TINH THẦN
Người cải tạo rất khổ tâm
về phương diện tinh thần. Những linh
mục phải đi học tập v́ là đại úy tuyên
úy Công Giáo rất đáng khâm phục. Bất chấp ngăn
cấm, kiểm soát chặt chẽ, các cha vẫn làm Thánh
Lễ cho người tù Công Giáo. Lễ bỏ túi, lễ
chạy, lễ di động. Nhưng vẫn có Thánh
Lễ, nâng đỡ tinh thần với đức tin Chúa.
Ngược lại các cán bộ chỉ lập
lại những lời tuyên truyền trước đây
trong chiến tranh có thể áp dụng với dân chúng ít
học nơi vùng quê hẻo lánh nhưng bây giờ
đối tượng lại là những sĩ quan có tŕnh
độ, tối thiểu cũng đă tốt nghiệp
trung học.
Luận về tội của người đi
cải tạo: “Anh là giặc lái, lái máy bay bỏ bom toàn
trẻ em và phụ nữ; bộ đội được
huấn luyện kỹ thuật tránh bom, đâu có chết.
Anh là quân y, chích thuốc kích thích cho lính ngụy nó hăng
lên đánh phá cách mạng dữ dội. Anh là Cha, là Cố,
làm phép cho lính Ngụy đạn bắn không trúng”.
Ngoài ra những buổi sinh hoạt “văn
nghệ” làm tôi khổ sở lắm. Không muốn nghe, không
muốn thấy cũng không được. Ngồi xoay qua
xoay lại cũng bị phê b́nh. Ngồi ngủ gục
tội c̣n nặng hơn nữa. Cuối cùng tôi có cách.
Tuyệt chiêu! Tôi ráng nhớ hết tên quư cô giáo, thầy
giáo, giáo sư trung học, giáo sư đại học khoa
học, đại học y khoa…Tôi ngồi đó, như
tượng gỗ. Ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh
nhưng tôi không thâu nhận ǵ hết v́ trí óc tôi đang
bận với tên tuổi những người đă góp
phần dạy dỗ tôi. Xong. Tôi nhớ hết.
Kế đến, lần sinh hoạt văn
nghệ tới, tôi ráng nhớ tên mấy đứa bạn
cùng lớp. Lẽ dĩ nhiên tôi đâu có nhớ hết
nổi, nhưng đầu óc tôi đâu có rảnh
để “tiếp thu” những lời
vô nghĩa, chướng tai. Tôi ráng nhớ mấy bài
“học thuộc ḷng” (recitation). Vui lắm. Học từ những
năm 1947-48. Ví dụ bài ”Cắt Móng
Tay”:
Đời xưa có thói dị thường
Những người sang trọng ngồi không tối ngày
Bởi nên không cắt móng tay
Để cho nó mọc ra dài uốn cong
Đời nay có thói lạ lùng
Móng tay họ cắt mà không cắt cùi
Mỗi ngày mài dũa lau chùi
Thoa son đánh phấn ra mùi Tây U…
Cũng có bài cảm động lắm như
bài “Tan Buổi Học”:
Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa,
Nhác trông con đứa đứa về dần,
Xa xa con đă tới gần,
Mẹ con tề tựu quây quần bửa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm ḍn,
Chồng chồng vợ vợ, con con một đàn.
Hoặc bài ”Après la bataille’
của Victor Hugo, bắt đầu bằng câu:
Mon père ce heros, au sourire si doux,
…Donne lui tout de même à boire, dit mon père.
Đặc biệt bài “La maison paternelle” càng làm
nhớ nhà thêm:
“Inoubliable est la demeure
Qui vit fleurir nos premier jours…”
Ngày lại qua ngày. Không ai dám đếm ngày
đếm tháng nữa.
VỤ ÁN BÁC SĨ B. Q. M:
“Học tập cải tạo” đă hơn
một năm rồi. Ngày về mù mịt như Tô Vơ
chăn dê. Bặt tin tức. Có “ai” đề cập
đến liên lạc vớI gia đ́nh đâu.Trái lại,
hàng ngày cán bộ nhắc nhở lệnh: Cấm “liên
hệ”với bất cứ ai, lúc ở trong trại cũng
như lúc ra ngoài đi lao động
(cuốc đất trồng khoai ḿ, chặt tre, đốn
củi).
Không biết bằng cách nào, các bà vợ “tù
cải tạo’ ở Sài G̣n biết được Trại
Long Giao. Thế là ngày nào cũng có mươi bà lên đón
mong gặp các toán tù “xuất trại để lao
động”.
– Các anh ơi, tôi là vợ của Đại Úy
X, trước ở Đơn Vị Y. Các anh nhắn dùm là
gia đ́nh b́nh yên. Ba đứa con tôi nuôi không nổI nên cho
nó theo Cậu Z, theo chú nó hết rồi.
OK Salem hết rồi.
Thế là chiều hôm đó thế nào cũng có
màn: “Sáng nay tao thuộc tổ chặt tre, có thấy Bà Xă mày
lên. Không làm sao nhận được quà cáp ǵ hết v́
bộ đội kiểm soát chặt chẽ quá. Nhưng Bà
Xă mày nhắn là gia đ́nh b́nh yên, ba đứa con bả cho
Cậu Z nuôi. Mẹ, Cậu Z “vọt” hồi 75 phải
không mậy? Ê, c̣n đường không, cho xin một
thẻ”.
Tối hôm đó, trong giấc ngủ chập
chờn, Đại Úy X. mỉm cười.
Sau này, Bà Xă tôi kể lại: Đă lên Long Giao tám
lần. Những ngày ấy, tôi không thuộc toán lao động ra ngoài. Những ngày tôi
cuốc đất, vác củi ngoài trại, Bà Xă tôi không lên.
Cũng dễ hiểu thôi: C̣n lo chạy gạo, săn sóc
bốn đứa con nữa chớ!
Mỗi buổi tối sinh hoạt, quản giáo
nhắc lại: Cấm “liên hệ”.
Rồi giông tố nổi lên. Không biết cách
nào đó, cán bộ bắt được một tờ
giấy nhỏ với vỏn vẹn chín chữ: “Má và các
con yên tâm, Ba b́nh an”.
Theo ngôn ngữ được dùng, tác giả là
một tên Nam Kỳ. An ninh trại
điều tra và quả quyết Bác Sĩ B. Q. M. là thủ
phạm với bản án: “Nhốt vào conex”. Thời gian
sẽ quyết định sau.
Conex là một hộp sắt h́nh vuông, mỗi
cạnh khoảng 1,5m, có hai cánh cửa, kín mít
, dùng để chứa hàng hóa, gởi từ Mỹ
sang. Người ta khoét hai lổ khoảng 10x20cm cho
người tù thở. Conex để giữa “trời cao
đất rộng”, không một bóng mát. Trong conex, tù không
đứng thẳng được. Ban ngày nhiệt
độ lên tới 105-110 F. Sắt giản ra bưng
bưng (đâu có chuyện “ Nắng
Sàig̣n anh đi mà chợt mát,” đâu có “áo lụa Hà
Đông”!). Người tù conex chỉ có một bộ
đồ, cởi ra hết, che trên đầu, hy vọng
đỡ nóng. Mắt đỏ hoe. Miệng khô
đắng. Da sần lên như da cắt kè. Mỗi ngày
được một lít nước. Tiểu tiện ngay
tại chỗ. Nước tiểu vừa đụng sàn
conex đă bốc hơi. Cục phân, nhỏ như cứt
dê, cũng khô cứng.
Cửa conex chỉ mở ngày hai lần cho
bạn tù mang nửa khẩu phần cơm tới. Rồi
đóng lại ngay. Người ta không muốn tù
được hưởng chút không khí trong sạch.
Đúng nghĩa không khí trong sạch, không bóng gió ǵ hết.
Ban đêm lạnh thấu xương. Tù nằm
cong queo nghe sắt co rút lại kêu răn rắc. Không c̣n
sức để mà run.
Bị nhốt trong conex là kể như ḿnh
đă đặt một chân vào thế giới bên kia rồi. Chỉ cần rút nhẹ một
chân nữa là xong một kiếp người ở cái
tuổi chưa đầy bốn mươi. Vậy mà BS
B.Q.M. c̣n sống nhăn sau một tháng cọng với ba
ngày trong conex.
Đến nay, ba mươi năm sau, BS B.Q.M.
vẫn BỐN KHÔNG (biết): Không biết ai là tác giả
chín chữ đó, không biết tại sao an ninh trại
lại quả quyết là ḿnh, không biết tại sao
được thả ra, không biết nhờ đâu ḿnh
sống được.
“VERTIGO” của BÁC SĨ NGUYỄN SƠ ĐÔNG
Một buổi chiều không đi lao động, tôi đang ngồi vá chiếc
vơng nylon th́ có bộ đội chuyển lệnh: lên văn
pḥng làm việc với “Anh Lực”. Nghe tên Anh Lực, tôi
lạnh ḿnh. Mấy đứa bạn tù ngồi gần
đó ngước nh́n tôi, nh́n tên bộ đội non
choẹt vác AK mà ngao ngán dùm tôi.
“Anh Lực” là trung úy an ninh
của trại Long Giao nổi tiếng “ác ôn”. Thật t́nh,
tận mắt, tôi chưa có dịp thấy hắn hành hung,
đấm đá ǵ ai. Nhưng nộ nạt, sỉ vả,
chửi mắng, hăm dọa tù là chuyện cơm bữa
đối với hắn. Tôi đă bị hắn gọi
đích danh ra “trước hàng quân”… tù để sỉ
vả:
– Lúc nhỏ, anh là con đẻ của thực
dân Pháp (v́ cái tội theo học ở
trường Chasseloup Laubat của Pháp). Lớn lên, anh làm tay
sai đắc lực cho Đế quốc Mỹ. Tội
của anh đáng chết mười lần, anh có thấy
nhục nhă không?
“Anh Lực” mà ra lệnh nhốt vào conex th́
hết thấy mặt vợ con, anh em, bè bạn. Tôi
lại nhớ đến h́nh dáng của Bác Sĩ B.Q. M.sau
khi được d́u ra khỏi conex. Trắng xanh, mắt
sâu hoắm, không c̣n chút sinh lực, ốm tong teo… Nh́n vào
không thấy đâu hết, chỉ thấy bộ quần
áo rộng thênh thang bay phất phơ trong gió. Đứng
không vững. Nói không ra tiếng. Bây giờ, năm 2006,
ngồi yên viết lại, chớ lúc đó tôi sợ
lắm, bước chậm chậm như cái xác không
hồn. Tôi ráng lấy can đảm, nắm chặt tay lại chớ chân tôi bắt đầu
run run khi gần đến văn pḥng Tiểu Đoàn Tù
L2T1.
Đến cửa văn pḥng, tự nhiên tôi quay
lại nh́n trời. Biết đâu đây là lần cuối
ḿnh c̣n có thể nh́n lại chút bầu trời trong mát.
Bộ đội đứng nghiêm: “Báo cáo
đồng chí…“, vừa báo cáo vừa để tay vào lưng tôi, “d́u” nhẹ tôi vào văn
pḥng. Toàn thân tôi nổi da gà. Tôi có cảm tưởng
đao phủ đưa tội nhân lên máy chém..
Tôi bước vài bước vào đứng nghiêm trong
văn pḥng Trung Úy Lực:
– Kính xin báo cáo… Tôi vừa nói vừa nh́n hắn,
cố lấy giọng b́nh tĩnh.
Hắn ngồi sau bàn viết, cố t́nh không
nh́n tôi, như đang t́m kiếm ǵ đó, lấy ra một
xấp hồ sơ (tôi nghĩ đó là hồ sơ của
tôi v́ từ khi vào trại đến giờ đă khai lư
lịch trích dọc trích ngang hơn chục lần
rồi). Rồi từ từ, hắn đứng dậy,
kéo áo lại cho ngay ngắn, từ từ tháo dây thắt lưng
có dính ṭn ten bao da đựng cây K54, để nhẹ trên
bàn viết, kế một tách trà đă vơi.
Năy giờ cũng đă gần năm phút
rồi, hắn vẫn không thèm nh́n tôi bằng nửa con
mắt, không thèm phán cho tôi nửa lời. Tim tôi đập
liên hồi, có cái ǵ ngăn ở ngực. Muốn ói. Tai ù.
Mắt mờ. Như đang lạc vào thế giới
huyền ảo. Cái sợ đă lên tới tột
đỉnh.
Bổng hắn đập mạnh nắm tay xuống mặt bàn. Rầm. Tiếng
rầm kéo tôi trở lại thực tế. Tôi mở
mắt to, há hốc nh́n hắn. Hắn quát:
-Tại sao tới giờ này anh c̣n dối cách
mạng. Cách mạng đă tha tội chết cho anh…
Thật là một lũ ngụy.
Sợ quá, tôi không biết lúc đó tôi có hiểu
hết những ǵ hắn nói không. Hắn ra mặt giận
dữ, vừa thét to, vừa đẩy xấp hồ
sơ về phía tôi.
Như có phép lạ, trong thoáng giây, đầu óc
tôi minh mẫn lại. Có lẽ ngọn đèn bừng sáng
lên trước khi bị dập tắt. Tôi linh cảm trong
cử chỉ, trong giọng nói của hắn có chút ǵ
giả dối, có chút ǵ muốn áp đảo tôi.
– Xem đây, anh viết anh không hề vào
đảng “Thằng Thiệu” mà sao lên cấp bậc
đại úy. Mẹ, không vào đảng, lên đại úy.
Dối cách mạng cho cải tạo mục xương.
Tôi tỉnh lại hẳn. Tôi cám ơn hắn
đă lập lại câu nói “không vào đảng, sao lên
đại úy”. Tôi không nghe sai. Tôi cảm được con
người tôi hiện đầy sinh khí. Tôi muốn
cười thật to, cho sướng. Tôi vẫn
đứng nghiêm. Hắn c̣n hét to lên nữa, tiếp
tục mắng chửi, hăm dọa đủ
điều. Tôi đâu có nghe nữa. Tôi biết chắc
chắn hắn hố rồi. Tôi biết chắc chắn
không có ǵ để buộc tội tôi, ngoài cái tội
ngụy. Và tôi không sợ nữa. Hắn mệt rồi.
Hớp cạn tách trà, hắn ngồi lại xuống
ghế, mắt mở to nh́n tôi như cố ư xem tôi “xanh
mặt” đến mức nào. Run chưa?
Tôi chậm răi để hưởng hết cái
hương vị đậm đà của “chiến
thắng”.
– Kính thưa anh cho phép tôi báo cáo.
Sau một thoáng suy nghĩ hắn gật
đầu chấp thuận.
– Kính xin báo cáo anh mấy điều. Thứ
nhất, anh xem lại bảng lư lịch của tôi, tôi không
có mang cấp bực thiếu úy động viên vào quân
đội … (tôi muốn nói Quân lực Việt Nam Cộng
Ḥa mà không dám)…
– Ngụy chứ quân đội ǵ, hắn
cắt ngang.
– Động viên tháng 3 năm 1966, tôi mang ngay
cấp bực trung úy (tôi cố tránh chữ ngụy).
Thứ hai: Trong quân đội miền Nam …
– Tôi ra lệnh anh nói quân ngụy, hắn bực
dọc lắm rồi.
– Vâng trong quân ngụy, không có cấp
“thượng” như thượng úy, thượng tá,
thượng tướng, nghĩa là từ trung úy lên ngay
đại úy. Thứ ba: Tôi lên đại úy từ năm
1968 (đặc cách tại mặt trận, tết Mậu Thân, tôi không dám nói sợ hắn “quưnh” tôi) và
đến năm 1975 vẫn c̣n mang đại úy. Như
thế tôi vào quân… ngụy hơn 9 năm, lên có một
cấp bực th́ có đảng nào đâu!
Tôi vẫn đứng nghiêm, nghiêm để nh́n
cái bối rối của hắn. Hắn vẫn trừng
mắt nh́n tôi, trong ánh mắt có chút bẽn lẽn của
một người vừa đánh… hụt. Hắn cố
gỡ gạc:
– Cách mạng t́m được tài liệu anh là
đảng viên đảng “Thằng Thiệu” th́ sao?
– Kính xin báo cáo: Tùy cách mạng định
đoạt.
– Thôi cho anh về. Cấm kể lại chuyện
này cho bất cứ ai. Chết với tôi đấy.
Hắn gọi bộ đội đưa tôi
lại lán B12. Trên đường về tôi huưt sáo nho
nhỏ… “The Longest Day”. Về đến lán, anh em ngạc
nhiên thấy tôi c̣n nguyên vẹn. Mắt không bầm, mặt
không sưng. Tay chân c̣n cử động nhịp nhàng. Tuy
nhiên không anh nào dám hỏi han ǵ hết. “Anh
Lực” oai đến thế.
CHUYỂN TRẠI
Một ngày đầu tháng 3 năm 1977. Sáng
sớm ban quản giáo ra lệnh: Hôm nay không học tập,
không lao động, các anh mang hết
đồ đạc ra sân khám xét.
Đây không phải là lần đầu. Trong quá
khứ, thỉnh thoảng đôi ba tháng một lần chúng
tôi bị “khám xét tổng quát”: Vũ khí nhọn (chống
đối), cơm khô (âm mưu trốn trại), thư từ (liên lạc), tài liệu (tuyên
truyền)… Sau khi ăn cơm trưa, xét
tiếp đến xế chiều mới xong.
Anh em đang xếp đồ đạc
lỉnh kỉnh cho vào túi vải bỗng quản giáo ra
lệnh: “Cán bộ trung đoàn đến, tất cả
đứng yên tại chỗ”. Cán bộ trung đoàn,
gầy đét, mắt vàng sốt rét kinh niên, môi thâm
thuốc lào trao một tờ giấy, quản giáo
đọc: “Các anh có tên sau đây đứng qua bên
phải, chờ lệnh”. Mười lăm, mười
sáu tên, trong đó có tôi. Các anh khác mang đồ trở vô
lán, đóng cửa lại. Cấm trở ra sân. Nhóm chờ
lệnh, hoang mang. Nhóm trở vào nhà lo âu. Cả hai nhóm
đều xanh mặt.
Sau đó, nhóm chờ lệnh mang túi đồ
đạc được dẫn lên trước văn
pḥng tiểu đoàn L2T1, ngồi thành một hàng dọc cùng
với nhiều nhóm khác. Tiếp tục chờ lệnh.
Chờ lệnh trong sợ sệt. Chốc chốc lại
có anh th́ xin phép đi tiểu. Mờ tối, khoảng 8
giờ, một đoàn 5 chiếc Molotova tới. Bây giờ
cán bộ trung đoàn mới cho biết: “Có lệnh
chuyển trại các anh.” Giống như gần 2 năm
trước từ “Tử cấm thành Trưng Vương”
lên Long Giao, nghĩa là đi ban đêm, với bạt mui xe
đóng kín; lệnh rất nghiêm nghĩa là ra khỏi hàng là
bắn bỏ. Một chi tiết nhỏ: lần này, tôi
không nghe tiếng AK đạn lên ṇng. Molotova chạy
suốt đêm, bỏ đường nhựa, chạy
quanh co đâu trong rừng, dằn, xốc lắm. Sáng hôm
sau, đoàn xe thả tù xuống một
trảng tranh. Lần lượt nhảy xuống. Anh nào
cao dưới 1.60 m không thấy đâu! Tranh cao khỏi
đầu. Tập hợp. Chia tổ, chia lán. Đốn
cây, dựng nhà, đào giếng. rành quá
rồi. Địa danh: Katum, rừng già, nguyên là mật khu
giữa Tây Ninh và biên giới của Việt Miên.
SỐNG GIỮA RỪNG GIÀ KATUM
Cán bộ nói chung quanh không có
hàng rào, không kẽm gai, không bộ đội gác ǵ hết,
nhưng các anh đừng có dại dột mà trốn
trại. Không biết đường ra đâu. Đúng,
chúng tôi bị nhốt giữa rừng già. Đi lao động thỉnh thoảng gặp
hầm hố, công sự chiến đấu, doanh trại
của cộng sản, trước 75, nay đă hoang tàn.
Cuộc sống có vẻ đỡ g̣ bó và đỡ đói
v́ có “kiếm chác” được chút “ của trời cho”:
cải trời, măng, trái cây rừng … Thích nhất là
gặp những hố bom, mỗi hố đường
kính rộng hơn cả 10m, không biết sâu bao nhiêu,
nhưng đầy âm ấp nước; có nước là có
sinh vật: Cá và ếch. Tôi mang lưỡi câu “thứ
thiệt”, có ngạnh đàng hoàng, nhợ nylon, chặt trúc
làm cần câu cá và ếch, thằng bạn cùng tổ làm việc
ngạc nhiên lắm. –“Ở đâu mày có?” –“
Mang theo khi đi tŕnh diện chứ ở đâu
mậy. Tao đâu có tính 10 ngày mậy”.
Giữa rừng già, đêm xuống, trăn trở nhớ nhà lắm. Trăng
rừng, bóng trăng xanh tải, lành lạnh. Chập
chờn, ma quái. Mưa rừng reo rắt, buồn thúi
ruột. C̣n ḷng dạ nào mà nhớ Thanh Nga … “Mưa rừng
ơi mưa rừng giọt mưa, nhớ ai mưa
triền miên”… Thấm thoát mà ở tù hơn hai năm
rồi. Cách đối xử của cán bộ đối
với tù vẫn hằn học và khinh rẻ. Họ là
kẻ thắng trận, nhưng họ biết không khi nào
họ “tẩy năo” được chúng tôi. Vậy, họ
c̣n giữ chúng tôi làm ǵ? Từ ngày lên Katum đến nay
đă 4, 5 tháng rồi có “học hành” ǵ đâu. Những
đêm trằn trọc nghe bạn tù mớ… mớ cha,
mớ mẹ, mớ vợ, mớ con… mớ bạn bè.
THĂM NUÔI .
VIVE LA “2CV”
Một ngày đầu tháng 6/1977, quản giáo ra
lệnh: “Khẩn trương, đốn cây, cất thêm
mấy căn nhà. Các anh sắp được thăm nuôi.
Cắt tóc, chọn áo quần “tốt” mà đón gia đ́nh”.
Chúng tôi ghi nhận tin “thăm nuôi” bán tín, bán nghi. Lần này,
như có phép lạ, “Cách Mạng” thực hiện
điều mới tuyên bố. L’exception confirme la règle.
Thế là tôi được gặp mặt vợ con.
Lại Nguyễn Lộc Thọ, cựu giáo
sư Quốc Gia Nghĩa Tử, người đă chở
Honda tôi đi tŕnh diện học tập ngày Chúa Nhật
23/6/1975, nay chở vợ và bốn đứa con tôi lên
Katum, bằng chiếc 2 CV cũ kỹ. Cảm động
nhất, là có bà nhạc mẫu tôi. Bà ngoại, bảy
mươi ngoài, lụm cụm lên thăm thằng rể
“tù”.
ÁNH SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM
Tháng 8/77, một số chuyên viên y tế,
kiến trúc, kỹ sư được “chuyển
trại”. Không nói thẳng, nói thật, chuyển trại,
thế thôi. Về bến mới đục hay trong?
“Cũng liều nhắm mắt đưa chân”. Autant en
emporte le vent. Sắp xếp hành trang lên Molotova… lần
thứ ba.
Lần này, chúng tôi nhận thấy hai
điểm “sáng sủa”, nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng, là di chuyển ban ngày và bạt mui xe
không khép kín lại, tuy vẫn có hai bộ đội
với AK ngồi ngoài b́a hai băng xe. Có AK nhưng không nghe
tiếng đạn lên ṇng. Đến xế chiều, xe chạy vào một doanh trại cũ
của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa, không biết
đơn vị nào, chỉ nghe anh ngồi ngoài b́a nói Tây
Ninh. Xe ngừng. Lần lượt nhảy xuống
đất. Bỗng nh́n lên vách một căn trại
chữ phai mờ rồi nhưng c̣n đọc
được: TD 252 PB. Mắt tôi hoen mờ. Môi tôi nghe
mặn. Tôi đă khóc: Th́ ra đây là một phần của
đơn vị cũ của tôi, Sư Đoàn 25 Bộ
Binh.
Tái diễn cái màn: Chia tổ, chia lán, nhưng
khỏi dựng nhà. Hàng dăy doanh trại bỏ trống.
Ở đây tôi gặp lại Dương Tấn Lợi,
đại úy Quân Nhu, trong nhóm Chasseloup/ Jean Jacques Rousseau
đi nhậu hàng tháng với nhau. Vợ anh Lợi “dân Tây”
– Quốc tịch Pháp, thứ thiệt chứ không phải
như tôi bị chửi oan, đă đem đứa con “hồi
hương” về Pháp rồi. Khỏe ru.
Nó khỏi lo con, cháu nó. Lợi kéo tôi ra một góc, “nói
nhỏ cho mầy biết, tao c̣n hai con khô sặc, tao cho
mầy một con”. Trời! Tôi không biết caviar, tôi không
biết “khô lân chả phụng” ngon đến mức nào,
chớ giờ đây, đổi con khô sặc rằn,
rằn, rằn này… tôi không chịu.
Độ hai tuần sau, tôi được
giấy xuất trại … Tưởng là tốt lắm. Có
ngờ đâu, như thầy Huyền Trang Tam Tạng, sau
80 nạn rồi … chỉ thỉnh được mấy
pho “vô tự kinh”.
SỐNG LẠI
Đúng như Tam Tạng qua bao nỗi “trần
ai” chỉ thỉnh được mấy pho “vô tự
kinh”.
Được giấy xuất trại chỉ
là thả ra khỏi trại tù nhỏ Củ Chi … Để
được giam trong trại tù lớn Việt Nam.
Chữ “Ngụy” được in vào hồ
sơ, như được xâm lên trán, thời trung cổ.
Ngụy có nghĩa là:
– Mất quyền công dân.
– Bị áp lực đi kinh tế mới, giao
nhà cửa cho nhà nước “cách mạng” quản lư.
– Lẽ dĩ nhiên không nơi nào cho ḿnh việc làm,
bất cứ ở tầng lớp nào trong xă hội.
Dẹp hết tự ái, tôi xin vào làm y tá trong
pḥng y tế của một xí nghiệp dưới sự
“chỉ huy” của một “bác sĩ chuyên tu” Cộng
Sản (chỉ mong có việc làm ở Sài G̣n, khỏi đi
kinh tế mới). Vậy mà hai tuần sau, chi bộ
đảng quyết định: Chỗ này phải dành cho
“thân nhân liệt sĩ cách mạng”.
Tôi cắn răng chịu đựng mọi
đắng cay: Ra Sở Y Tế (Ṭa Lănh Sự Trung Hoa Dân
Quốc cũ, đường Hai Bà Trưng) thành phố
Hồ Chí Minh, gặp Bác Sĩ Nguyễn Hải Nam, cùng khóa
Y Khoa Sài G̣n. Nam bây giờ là VIP, v́ là “cơ sở cách
mạng” (nằm vùng) do anh ruột Đại Tá Công An
Cộng Sản Nguyễn Hải Thọ gài trong Bệnh
Viện Cảnh Sát/ Tổng Nha Cảnh Sát Việt Nam
Cộng Ḥa, đường Vơ Tánh. Nam chỉ phán một câu: ”Anh về thu xếp đi kinh tế
mới”.
Đứng xếp hàng mấy tiếng
đồng hồ để mua “nhu yếu phẩm”, th́ bà
tổ trưởng dân phố bảo:
– Cậu là ngụy, không bán.
Cay đắng ở chỗ: Bà này bà con khá
gần với ḿnh, nhưng nay ḿnh là ngụy: Hết bà con.
Tôi cố xoay sở, cố nuốt nhục, mong gia đ́nh
được dễ thở chút nào. Nhưng sau đây là
giọt nước mắt làm tràn ly.
Con trai đầu ḷng, học hết lớp 9,
xét lư lịch, con ngụy, không được tiếp
tục lên lớp 10.
Vậy người Cộng Sản muốn
đầy đọa bao nhiêu thế hệ gốc Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa?
Tôi xin viết rơ ràng, minh bạch cho thế
hệ mai sau: tôi đă đi dạy trung học, đă là
giám khảo thi Tú Tài I & II nhiều khóa, tôi đă hành
nghề y khoa trong và ngoài giới quân đội, tôi chưa
khi nào hỏi lư lịch thí sinh hay bệnh nhân. Thí sinh
giỏi, tôi cho điểm tốt. Bệnh tôi chữa.
Bị thương, tôi săn sóc. Nặng tôi gọi
trực thăng tản thương không cần biết
đó là chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa hay
Việt Cộng. Đó là tôn chỉ của Việt Nam
Cộng Ḥa.
V́ thế, khi con tôi mang phải cái tội “con
ngụy” bị từ chối lên lớp trên, tôi quyết
định vượt biên.
Tôi bàn kỹ với nhà tôi, chấp nhận
biết bao gian lao, nguy khổ, đem
mạng sống cả gia đ́nh đổi lấy tự
do. Chúng tôi hy sinh, mong các con có một tương lai sáng
lạn hơn hay ít nhất không bị trả thù.
Trong lịch sử, chưa có thời nào,
chưa có dân tộc nào phải chấp nhận
thương đau, chết chóc, tan nát … bỏ xứ ra
đi nhiều như Việt Nam Cộng Ḥa, sau 75. Một
cách khiêm tốn, ước lượng 10 người
vượt biên, 6 người thoát hiểm, 4 người
chết ngoài biển khơi (giông băo, bệnh, hải
tặc, đói …), th́ nếu 300.000 (ba trăm ngàn) “boat people”
đến được bến bờ tự do, đă có
200.000 (hai trăm ngàn) ch́m sâu đáy biển.
Việc tôi không hiểu được là con
số chết chóc quá cao như thế, đă làm thức
tỉnh lương tâm cả THẾ GIỚI… mà chính
quyền mới vẫn dửng dưng. Họ có
lương tâm hay không?
VƯỢT
BIÊN
T́m cái sống trong ngàn cái chết, gia đ́nh tôi
rời Sài G̣n ngày 26/10/78. Lẽ dĩ nhiên đầy hăi
hùng. Chúng tôi chấp nhận hết. Nhờ ơn trời,
chúng tôi đến Pulau Bidong ngày 3/11/78: ngưỡng cửa
trước khi vào chân trời mới.
Ở Bidong, cũng khổ cực, thiếu
thức ăn, thiếu đủ thứ … và nhiều lo
lắng, nhưng sống vẫn HY VỌNG. Hy vọng làm
lại cuộc đời ở một “đệ tam
quốc gia”… Úc, Mỹ, Pháp… ǵ cũng được.
Nơi đó có chút t́nh người. Những ngày đầu
đói lả người. Chồng 39 tuổi, vợ 38.
Bốn con, đứa nhỏ nhất: 5 tuổi.
Gia tài: Mỗi người một bộ
đồ, chứa trong túi vải cộng với bộ
đang mặc là hai, cọng với 2 ponchos “nhà binh”:
Một tấm trên nền cát, một làm mái che mưa nắng.
C̣n được 16 gói “gạo sấy”. Đồ hành quân
của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Từ đó
nấu thành cháo lỏng… ráng chịu đựng.
Không một dollar. Không một chỉ vàng. Đó
là gia đ́nh tôi khi cập bến Bidong.
Tôi đi ṿng khắp đảo … t́m viện
trợ. Hỏi Ban đại diện: không biết! Chính
quyền Mă Lai không cho được hạt gạo, lít
nước nào.
Ngày thứ sáu trên đảo. Hết gói “gạo
sấy” cuối cùng. Tôi gặp lại Bác Sĩ Nguyễn
Cẩm Thạch và Dược Sĩ Nguyễn Kim Sơn
(trước ở Trung Tâm 3 Huấn Luyện), vợ
chồng Bác Sĩ Trịnh Văn Chương và Bác Sĩ Mă
Ngọc Phương, Bác Sĩ Đoàn Lân, không quen
trước nhưng giờ làm quen … tiếp tế cho ḿ
gói, gạo, chén, nồi và dầu (để nấu và
đốt đèn). Quư hơn bát cơm Xiếu Mẫu. Trân
trọng đội ơn năm bạn.
Vào thời điểm này tháng 11/1978, “dân số”
Bidong khoảng 12 ngàn. Việc tổ chức “ban đại
diện” rất phôi thai. Trại
trưởng là Nha sĩ Đỗ Cao Minh (anh ruột Trung
tướng Đỗ Cao Trí).
Chúng tôi làm thủ tục ghi tên. Tàu chúng tôi
được xếp số thứ tự 76, để theo đó mà được gọi vào
phỏng vấn khi có phái đoàn “đệ tam quốc gia”
đến.
Ngày nào cũng có “vượt biên” đến:
Hoặc đến “thẳng” từ Việt Nam, hoặc do
chính quyền Mă Lai chở đến từ các trại khác.
Exodus. 7, 8, 10 … 15 mười lăm ngàn vào cuối 1978.
Nha sĩ Minh rời trại. Bác sĩ Nguyễn
Dương Đơn (con của bác sĩ Nguyễn
Dương Đôn, Bộ trưởng Quốc Gia Giáo
Dục năm 1954) thế. Bác sĩ Đơn đến
đảo trước tôi nửa giờ, cùng với gia
đ́nh bên vợ là Bác sĩ Nguyễn Đ́nh Hoàng, giáo sư
Quang tuyến Y Khoa Sài G̣n (Tàu số 75).
Bác Sĩ Đôn rời trại rất sớm,
Giáo Sư Lê Tấn Kiệt, cựu hiệu trưởng
một trường trung học công lập ở Hậu
Giang lên thế.
Người tị nạn ồ ạt
đến. Việc tổ chức “ban đại diện”
lần lần chu đáo hơn, liên
lạc thường xuyên với Cao Ủy Tỵ Nạn
Liên Hiệp Quốc (UNHCR/ United Nations High Commissioner for
Refugees)). Nhờ vậy trại Pulau Bidong được
chính quyền Mă Lai tiếp tế thức ăn,
nước ngọt. Tất cả chi phí do UNHCR đài
thọ: 4(bốn) US dollar cho mỗi đầu người
tị nạn, mỗi ngày.
Tàu tị nạn tiếp tục đến,
vẫn có nhiều chiếc bị Hải quân Mă Lai kép
trở ra hải phận quốc tế … Mặc cho sóng băo
…
BÁC SĨ KOUCHNER VÀ “MỘT CON TÀU
CHO VIỆT NAM”
Tàu bệnh viện L’Ile de Lumière
Nhắc đến Jean Blattes, lănh sự Pháp
ở Kuala Lumpur, Bernard Kouchner và nhóm cộng tác, thuyền
Trưởng Francois Herbelin và thủy thủ đoàn, tôi
chỉ có 6 chữ: THÀNH KÍNH TRI ÂN & CẢM PHỤC
Vượt bao khó khăn, trở ngại
khắp mọi nơi, từ Paris đến Geneve,
đến Kuala Lumpur, trở ngại ngay trong nhóm Médecins sans
frontiere, trở ngại với IRC, với MRC (Malaysian Red
Crescent), Bác Sĩ Kouchner đă thực hiện chương
tŕnh cứu trợ người vượt biển với
tất cả con tim và khối óc của ông:
– Cứu trợ trực tiếp, đúng lúc, ngay
trên biển cả.
– Đón người vượt biển,
chữa trị và đưa đến bờ tự do
THẬT SỰ.
Bác Sĩ Kouchner và nhóm cộng tác đă thuê
một tàu hàng “trống lỏng” ở Nouvelle Calidonie. Ráp vào
giường, máy quang tuyến X, pḥng thí nghiệm, pḥng
vệ sinh… để biến thành tàu bệnh viện
L’Ile de Lumière.
Bao nỗi trần ai, bao nỗi nhọc nhằn
với được chính quyền Mă Lai cho phép hoạt
động. Tàu cập bến Bidong ngày 18 tháng 4, 1979.
Tôi đang làm trưởng trại, thế giáo
sư Lê Tấn Kiệt đă được định
cư. Cảnh thật là cảm động. Người
tị nạn hoan hô dậy trời. Những người
“may mắn” đến gần được phái đoàn,
ôm chầm lấy họ, ̣a lên khóc. Khác màu da, khác màu mắt,
khác ngôn ngữ … Sao họ chấp nhận xa vợ, xa con,
quên no ấm, quên tiện nghi … t́m đến một góc
trời xa thẳm để cứu giúp ḿnh … Những
người họ chưa hề quen.
Phái đoàn cứu trợ gồm có: Jean Blattes,
lănh sự Pháp, Bác Sĩ Bernad Kouchner, Bác Sĩ Vladan Radoman,
Bác Sĩ Eric Cheysson, Bác Sĩ Patrick Laburthe, Bác Sĩ Pierre
Bonniaud, Bác Sĩ Jean Claude Sénéchal và cô Ghislaine Martin, y tá.
Không người nào cầm được
nước mắt. Các bác sĩ và y tá đă từng t́nh
nguyện đi cứu trợ ở nhiều trại
tị nạn rồi, nhứt là Bác Sĩ Bernard Kouchner
đă từng đến Afghanistan, Biafra, Eritrea, Jordan,
Kurdistan, Tchad … và Sài G̣n. Nhưng chưa bao giờ họ
thấy t́nh trạng thê thảm như … “địa
ngục trần gian Bidong”.
Bắt tay ngay vào việc. Khám
bệnh. Cần th́ chuyển lên “Ile de Lumière” … Quang tuyến
X, thử nghiệm, giải phẫu. và …
sanh … trên tàu.
Tàu rời Bidong ngày 5 tháng 7 năm 1979 với
thành quả: khám bệnh 1927 người, 151 ca “giải
phẫu” với gây mê, 18 em bé đă chào đời trên tàu,
trong đó có 3 trường hợp sanh mổ.
Trước khi rời Bidong v́ gần hết
giao kèo và gần hết tiền quyên được, Bác
sĩ Kouchner đă cho gỡ hết máy móc, dụng cụ,
giường bệnh, máy phát điện … để giúp ban
đại diện trại Bidong lập một bệnh
viện 65 giường. Thuốc men, y cụ … cho lại
hết để Ban Y Tế có thể tiếp tục
hoạt động.
Bỗng nhiên tôi nhớ đến một
chuyện trong “Bài tập đọc” lớp nh́: Một con
vượn bị thợ săn bắn, biết ḿnh
sắp chết (hết tiền quyên được) bèn
vắt hết sữa của ḿnh cho con bú.
Bác Sĩ Kouchner đă gơ hết các cửa ở
Paris từ Điện Matignon (Phủ Thủ Tướng
Pháp) đến Quai d’ Orsay (Bộ Ngoại Giao) và đă
được phép – với một quota khá cao – vớt
được người tị nạn nào, chính phủ
Pháp sẽ chấp nhận cho vào Pháp người đó..
Nhờ thế, sau khi rời Bidong, “con tàu cho
Việt Nam” c̣n “tuần dương” dọc theo
đường vượt biển Việt Nam – Mă Lai và
Vịnh Thái Lan trong nhiều tuần.
Và nhiều người tị nạn
được cặp bến bờ tự do … bờ sông
Seine.
NHÂN VẬT
ĐẾN ĐẢO BIDONG
Chắc chắn có nhiều vị đă từng
giữ những chức vụ quan trọng trong hai nền
Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Ḥa nhưng
tôi không biết. Có rất nhiều kỹ sư, kiến
trúc sư, luật sư. Đốc sự hành chánh …
Tôi chỉ xin ghi lại giới dân, quân y mà thôi:
Vào tháng 3, tháng 4 năm 1979, dân số Pulau Bidong
đạt mức cao nhất: non 45.000 (bốn mươi
lăm ngàn), khoảng 140 y nha dược sĩ đủ
mọi khóa. Đặc biệt:
– Bác Sĩ Nguyễn Đức Tiến, y sĩ
trung tá, trưởng khối Tê Mê Tổng Y viện Cộng
Ḥa … Thuộc hạng “sư” về khả năng chuyên môn.
Đàn em gọi là Tiến “thầy”. Gia đ́nh anh
vượt biên làm hai nhóm, trước sau. Cả hai nhóm (hai
cái ½ gia đ́nh) đều gặp hăi hùng: Anh suưt bị
hải tặc Thái Lan đạp
xuống biển, tàu của chị cũng suưt bị
đắm.
Mỹ, Nga phóng phi thuyền để ráp nối
với trạm không gian… tí teo trong vũ trụ mênh mông. Dễ
̣m. Không ráp nối được mới là lạ, là
trục trặc v́ họ có đủ yếu tố kỹ
thuật. Hai cái nửa gia đ́nh anh chị Bác Sĩ
Nguyễn Đức Tiến mà “ráp nối” nhau
được ở Pulau Bidong mới không phải là
lạ mà là PHÉP LẠ. Anh em ở giới Y chúng tôi nghĩ:
Trời giúp bởi anh chị Tiến rất hiền,
rất tốt với mọi người.
– Bác Sĩ Nguyễn Duy Cung rất hiền và
đa tài. Anh đă là thuyền trưởng cận duyên và
viễn duyên trước khi về học y khoa. “Interne Cung”
(nội trú các bịnh viện). Chuyên khoa giải phẫu
lồng ngực. Giám đốc bệnh viện Nguyễn
Văn Học. Ngày 30/4/75, từ chối lời mời di
chuyển, đứng giải phẫu với Bác Sĩ
Bernad Kouchner cho đến khi bộ đội Cộng
Sản vào chĩa AK đuổi cả hai ra khỏi pḥng
mổ.
Anh Cung vẽ rất tài, làm chirungie plastique
rất có “hoa tay”.
Bác Sĩ Nguyễn Bội Hoàn, quyết
định đi Pháp, rời đảo rất nhanh. Bác
Sĩ Hoàn là trưởng nam của Giáo Sư Nguyễn
Ngọc An, cựu bộ trưởng
Bộ Chiêu Hồi.
Bác Sĩ Trần Dương Đôn (Dominique), em
ruột Giáo Sư Trần Lữ Y (Louis), cựu bộ
Trưởng Bộ Y Tế, ở đảo có mấy
tuần. Vợ là Bác Sĩ Thái Ngọc Hoa (em của Thái
Tường, tiến sĩ Dược, giáo sư Kư Sinh
Trùng Học) và con đă “di tản” sang Pháp trước
30/4/1975 nên Son Excellence Consul de France à Kuala Lumpur, Jean Blattes
chấp thuận lẹ.
Giới ca sĩ có Thanh Tuyền, Băng Châu.
Báo Nouvelle Calédonie, nơi xuấn xứ chiếc
tàu bệnh viện L’ Ile de Lumiere, đài truyền h́nh
Mỹ: CBS, Pháp: Antenne 2 đến Pulau Bidong … làm phóng
sự, thu h́nh … có “dính” tôi trong đó.
Nhờ vậy, một số bạn hữu ở Mỹ,
Pháp biết tôi đă thoát khỏi “địa ngục
trần gian” và viện trợ cho tôi, qua trung gian UNHCR.
TRỞ LẠI PULAU BIDONG hay 30 NĂM
SAU, VIỆT CỘNG VẪN LÀ VIỆT CỘNG, VẪN TÀN ÁC
VÀ NGU DỐT
Tháng 3, năm 2005, một nhóm thuyền nhân
trở lại Pulau Galang và Pulau Bidong để tưởng
nhớ những người đồng cảnh ngộ
đă vắng số trên bước đường t́m
tự do và tỏ ḷng tri ơn chính phủ, hội đoàn,
cơ quan, tư nhân … đă cứu giúp người tị
nạn. Ở mỗi nơi họ dựng một tấm bia với những gịng như sau. Tôi xin ghi
nguyên văn:
“In commemoration of the hundreds of thousands of Vietnamese
people who perished on the way to freedom (1975 – 1996). Though they died of
hunger or thirst, or being raped, or exhaustion or any other causes, we pray
that they may now enjoy lasting peace. Their sacrifice will never be forgotten.
Overseas Vietnamese communities, 2005”.
Tạm dịch:
Tưởng niệm
hàng trăm ngàn người Việt đă bỏ ḿnh trên con
đường đi t́m Tự Do (1975-1996). Dù họ chết v́ đói khát, v́ bị
hăm hiếp, v́ kiệt sức hay v́ bất cứ lư do nào
khác, chúng ta thảy đều cầu nguyện để
họ được yên nghỉ dài lâu.
Sự hy sinh của họ sẽ
không bao giờ bị lăng quên.
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI
NGOẠI, năm 2005.
Chính phủ Việt Nam làm áp lực với chính
phủ Mă Lai Á và Nam Dương phá bỏ hai bia
đá đó. Nhưng
Trăm năm bia đá th́ ṃn
Ngàn năm bia miệng hăy c̣n
trơ trơ
LÀM LẠI CUỘC ĐỜI
Gia đ́nh tôi đến Annandale, Virginia ngày 01
tháng 06 năm 1979. Lúc bấy giờ người “tị
nạn” “boat people” chưa đông. Thủ tục trợ
cấp xă hội, y tế (welfare, medicaid) rất nhanh …
Sáng sớm 4 giờ, tôi và ba đứa con
lớn thức dậy đi … bỏ báo Washington Post.
Nhớ bài học thuộc ḷng từ lớp ba, năm 1948:
Tôi chỉ là một trẻ em bán báo
Khắp phố phường chân sáo nhảy tung tăng
…
Bán văn chương
ai dám bảo nghề hèn …
Đến 6 giờ … “công tác phổ biến
văn chương, chữ nghĩa” xong, cha con về
ngủ lại một chút. 7:30 sáng thức dậy. Con đi
học. Cha đi làm “thợ phụ” với một nhóm …
sửa chữa nhà để có chút tiền bù vào “ngân sách”
gia đ́nh.
Tối về, cơm nước xong xuôi, các con
làm “home work” vật vă với Anh văn cho học sinh
ngoại quốc (English as a Second Language/ ESL), cha lo học
thi ECFMG (bằng tương đương cho bác sĩ
ngoại quốc).
Khóa ECFMG tháng 7/79 đă hết hạn nộp
đơn rồi, hơn nữa biết ǵ mà thi – Tù đày
cải tạo, gian khổ Bidong, trí óc có ngu
muội, th́ hợp lư thôi. Ráng “gạo” để thi khóa
02/80. Đến cuối năm 79, đành phải bỏ
bớt cái “job” “bán văn chương” của Washington Post.
Đậu ECFMG luôn phần Y khoa và Anh văn,
mừng hết lớn. Lo nộp đơn “xin một
chỗ đứng dưới ánh mặt trời”: nội
trú (residency). Ráng cho kịp niên khóa 80 – 81.
FMG, ĐỨA CON
“VÔ THỪA NHẬN”
Tôi gởi ra tất cả là 62 đơn,
khắp nước Mỹ, trừ những nơi
người ta ghi rơ ràng: No FMG (Foreign Medical Graduates là bác
sĩ tốt nghiệp trường ngoại quốc).
Đủ mọi ngành, trừ những ngành ḿnh
thấy rơ ràng … vô hy vọng như Giải Phẫu Thẩm
Mỹ, Tai Mũi Họng, Nhăn Khoa…. Tiền làm bản sao,
tiền bưu phí… muốn ói cơm.
Số trời c̣n thương. Được
ba nơi gọi phỏng vấn … và chỉ một nơi
nhận: Family Practice (Y Khoa Gia Đ́nh) ở Delaware County
Memorial Hospital, Drexel Hill, PA 19026.
Bấy giờ là tháng 6/ 1980. Lần đầu
tiên, năm năm sau ngày Cộng Sản chiếm miền
Nam Việt Nam tôi … thấy chút yêu đời.
Residency 3 năm. Cũng cực nhọc, cũng
ê chề lắm! Một y tá hỏi: Biết “start an IV” không?
Một bà bệnh đuổi tôi ra khỏi pḥng
v́ tôi không hiểu “Charlie horse” là ǵ?
Thôi, rán nín thở lặn qua sông, thôi noi
gương Quốc Văn Giáo Khoa Thư… về nhà viết
một trăm chữ NHẪN…
CHÂN TRỜI MỚI
Xong chương tŕnh thường trú Family
Practice tôi làm full time ER physician (bác sĩ khoa cấp cứu)
ở Somerset Hospital, PA 15501.
Khoảng đầu tháng 3 năm 1985, bỗng
nhiên tôi nhận điện thoại từ Los Angeles (L.A.).
– Bác sĩ xuống L.A. được không?
– Tôi đang đi làm, mà xuống L.A. làm chi? Ông là
ai?
– Tôi đại diện CBS, muốn mời bác
sĩ xuống L.A. “thu h́nh”, trong tiết mục “Ten years
later”.
– Tôi không xuống LA được. Thời khóa
biểu (schedule) của pḥng cấp cứu (ER) nhà
thương chặt chẽ lắm …
– Vậy bác sĩ lên New York được không?
– Cũng không được … job mà!
Ông ta suy nghĩ một chút:
– Thôi, bác sĩ không xuống L.A., không lên New York
th́ CBS team sẽ đến nhà bác sĩ ở Somerset, bác
sĩ có chấp nhận không?
– Ông có thể cho tôi biết lư do nào tôi
được hân hạnh này?
– Bác sĩ quên là hồi tháng 3 năm 79, CBS có thu h́nh bác sĩ ở Pulau Bidong?
– OK! OK! Hẹn ngày giờ ngay.
Tối hôm ấy tôi suy nghĩ: Cả
đời không khi nào dám khoe khoang. Có được cái ǵ
đâu mà khoe. Nhưng, lần này, khi CBS đến phỏng
vấn, ḿnh phải “gáy” một chút. Để chi?
Để nhắn rằng những sĩ quan
ngụy, vượt biên, những người mà họ
gọi là “non sông chối bỏ giống ṇi khinh”… giờ
cũng an cư lạc nghiệp ở nước ngoài và
“đám con ngụy” mà họ trả thù không cho tiếp
tục học trung học cấp III… nay đang theo học
ở các Ivy League Colleges cả.
Bác Sĩ Nguyễn Sơ Đông
(Y Khoa Sài G̣n 65)