Từ khi hội họa
được chính thức tôn trọng như một
nghệ thuật tôn quư, các họa sĩ thường
chọn sẵn cho ḿnh một trường phái để
theo đuổi như Renaissance với Donatello, Leonardo Da
Vinci, Sandro Bortinelli, Michael Angelo, Jan Van Eyck; Baroque với
Bernini Rembrant; Neo-classicism với
Jacques Louis David, Impressionism với Monet, Van Gogh, Cézanne, và Paul
Gauguin; Cubism với Picasso…
Cuối
thế kỷ 20 lại có Futurism và Motion, rồi Unrealistic
với khá nhiều họa sĩ đương
đại. Theo chiều hướng đó, các họa
sĩ Việt Nam (ở miền Nam) cũng được
tự do theo đuổi một
đường lối riêng của ḿnh để cho ra
đời những tác phẩm độc đáo, ngoài
những trường phái trên, đặc biệt là
nghệ thuật hội họa mầu nước và
vẽ trên lụa.
Bác sĩ Phạm Anh Dũng, cũng là nhạc sĩ
nổi tiếng với 400 ca khúc
Tương
tự như thế, các nhạc sĩ sáng tác Việt Nam
(trừ các nhạc sĩ ở miền Bắc không có
tự do sáng tác) cũng tự chọn cho ḿnh một
đường lối sáng tác riêng biệt. Với
trường phái lăng mạn và viết theo quy tắc cổ
điển qua các nhịp điệu Valse, Blue, Tango, hay
Slow, có các nhạc sĩ tiền phong của nền tân
nhạc như Văn Cao, Phạm Duy, Tô Vũ, Lê
Thương, Chung Quân, Anh Việt, Dương Thiệu
Tước, Doăn Mẫn, Đoàn Chuẩn, Từ Linh,
Đặng Thế Phong, Đỗ Nhuận, Hiếu
Nghĩa, Hoàng Quư, Hoàng Giác, Hoàng Trọng, La Hối, Đan
Trường, Lê Trạch Lựu, Ngọc Bích, Nguyễn
Văn Tư, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn
Khánh, Lê Mộng Nguyên,..
Các
bản nhạc này thường được sáng tác trong
thập niên 30 trước chiến tranh Việt-Pháp nên được gọi là “Nhạc
Tiền Chiến”. Thực tế, nhiều bản nhạc đă
được sáng tác sau cuộc di cư 1954 cũng
được gọi là “nhạc tiền chiến” v́
cũng mang âm hưởng lăng mạn, cổ điển
như các bản nhạc của thập niên trước.
Sau đó là những bản nhạc mang một chút cách
tân của Cung Tiến, Lâm Tuyền, Nguyễn Văn
Đông, Nguyễn Hiền, Nguyễn Mỹ Ca…
Riêng
nhạc của “Thầy” Nguyễn Văn Đông, một
Tiến Sĩ Âm Nhạc Paris, là Thầy của rất
nhiều ca sĩ nổi tiếng Saigon, đă mang một âm
hưởng đặc biệt, v́ ông c̣n là một
đạo diễn cổ nhạc Đông Phương
Tử, một kịch tác gia có nhiều thoại kịch
đem lại những tiếng cười cùng những
giọt lệ trên sân khấu Saigon qua những vở
kịch do Kim Cương đóng làm Saigon đẫm lệ.
Điều
đáng ngạc nhiên là sau cuộc di cư 1954, âm nhạc
Việt lại nổi lên một chiều hướng
mới: nhạc phổ thông (Popular hay Pop) gồm những
bản nhạc kể lể những nỗi buốn da
diết với những mối t́nh không trọn vẹn. Các
nhạc sĩ thuộc trường phái phổ thông này
thường sử dụng loại nhạc Rumba, Bolero
nhịp nhàng để làm giá nâng đỡ cho các lời hát
thật đơn giản như lời kể chuyện
b́nh thường để có thể thấm nhập một
cách dễ dàng vào những tâm hồn đơn sơ
của người miền Nam.
Cùng
thập niên đó, các bản nhạc theo
thể điệu Slow, Slow Rock, March, hay Paso Doble cũng
rất được ưa chuộng. Trong số những
nhạc sĩ tiêu biểu của loại nhạc này,
người ta thấy có: Anh Bằng, Đinh Trầm Ca,
Khánh Băng, Hoàng Nguyên, Nhật Ngân, Trịnh Lâm Ngân, Y Vân,
Đỗ Kim Bảng, Phạm Mạnh Cương, Lê
Hựu Hà, Phạm Trọng Cầu,Trầm Tử Thiêng, Lê
Trọng Nguyễn, Trường Sa, Dũng Chinh, Mạnh
Phát, Phạm Thế Mỹ…
Nhưng
phải nói những bản nhạc phổ thông có lời ca
rất mộc mạc, chân thành, có tính chất kể lể
của các nhạc sĩ Huỳnh Anh, Lam Phương,
Nguyễn Hữu Thiết, Duy Khánh, Hoàng Thi Thơ, Minh
Kỳ, Châu Kỳ, Lê Dinh, Thanh B́nh, Thanh Trang, Đỗ
Lễ, lại được số đông thính giả
miền Nam ưa thích v́ đă thể hiện giùm họ
những điều mà họ nói không được.
Bên cạnh đó, có những tác phẩm mang lời nhạc
triết lư cao siêu, muốn tách rời âm hưởng
của những bản nhạc mang tính chất phổ
thông, nhưng không hoàn toàn cổ điển như của
Cung Trầm Tưởng, Từ Công Phụng, Trịnh Công
Sơn, Phạm Đ́nh Chương, Vũ Đức Sao
Biển, Vũ đức Nghiêm, Vũ Thành An…lại có
những thính giả chọn lọc khác.
Sau
1975, sang đến hải ngoại, một số tác
phẩm được sáng tác sau này bỗng đột
nhiên xuất hiện và tạo nên một trường phái
mới, dung dị hơn và thẩm thấu vào tâm hồn
người nghe nhanh hơn. Trong số những nhạc
sĩ sáng tác nhiều sau khi định cư ở Mỹ
có Đức Huy và Phạm Anh Dũng.
Nhạc
sĩ Phạm Anh Dũng, một Bác Sĩ Y Khoa, nhưng có
tâm hồn đam mê âm nhạc mạnh mẽ đến
nỗi chỉ trong khoảng 2 thập niên, ông đă sáng tác
gần 400 bản nhạc, một kỷ lục hiếm có
trong làng âm nhạc. Một điều đặc biệt
là ông viết nhiều bản nhạc về một loài hoa
phù dung, chỉ nở trong một khoảnh khắc ngắn
ngủi rồi tàn ngay: Hoa Quỳnh.
Những
bản nhạc viết về Hoa Quỳnh gồm có:
Quỳnh, Đêm Nguyệt Quỳnh, Quỳnh Hoa, Quỳnh
Lan, Quỳnh Giao, Quỳnh Như, Quỳnh Mơ,Với
Quỳnh, Nụ Quỳnh rướm máu, Như đóa
dạ quỳnh, Quỳnh thi, Quỳnh Lệ, Người
yêu dấu mang tên một loài hoa, Dạ Quỳnh
Hương, Hoài Mong, Dạ Khúc. Ông cũng thường nói
về chữ T́nh: T́nh Khúc Mùa Xuân, T́nh khúc mùa Hạ, T́nh Khúc
mùa Thu, T́nh Khúc mùa Đông. Những bản nhạc của
ông không viết trên những “Melody” phức tạp trong khi
ngôn ngữ sử dụng trong bản nhạc lại
đơn giản nên nhiều bản nhạc của ông
đă thẩm thấu vào tâm hồn của hầu hết
người nghe.
Hai
bản nhạc về Mẹ của ông làm người nghe
thấy nước mắt tràn mi: Mẹ Ru Con và Mẹ vàng
úa. Trong bài “Mẹ Vàng Úa” có những câu làm cho người
nghe muốn khóc: “Mẹ già như cây tàn héo. Nhớ con yêu xa
quê lâu rồi. Chiều về về qua xóm nghèo. Chiều
vàng, vàng trên đường phố. Mẹ già như
nắng vàng úa. Gió heo may hiu hiu u sầu. Nhin ḍng sông tím
lạnh. Lạnh buồn, lạnh tím tâm hồn. Chiều
xuân đó, con đi mai vàng thôi nở. Liễu xuân mềm
lặng lẽ rũ bên song. Bầy chim
bé tiếng hót đă ngưng từ lâu. Mẹ nước
mắt chan ḥa má nhăn nheo..Một ngày
con đă về đến. Đến quê hương
nhưng sao vắng mẹ. Chỉ c̣n một chiếc b́nh.
Trong b́nh là tro xác mẹ.”
Những
lời nhạc trong các tác phẩm của người
nhạc sĩ, bác sĩ y khoa này, dù là sáng tác hay phổ
nhạc từ thơ, đều được chọn
lựa kỹ càng, và sắp xếp theo
một tŕnh tự để người nghe thông cảm
được ngay tâm hồn nghệ sĩ của tác
giả. Trong bài “Nhạc Quỳnh Cuối cùng”, lời
nhạc như thanh thoát gợi buồn, nhưng không quá
đẫm lệ: “Đêm khuya dăng sầu, Môt v́ sao
thấp thoáng trong đêm tối mênh mang, Ḍng lệ ai tê tái.
Thấm ướt không gian buồn..
Rồi từ xa tiếng dương cầm thoảng theo gió ai sẽ hát cung trầm. T́nh
đến rồi đi mà sao ḷng vẫn mong chờ”.
Những
bài thơ được ông phổ nhạc là những
bản nhạc được trau chuốt từng âm
điệu như bài “Nước Chẩy Qua Cầu” (thơ
Hoàng Ngọc Quỳnh Giao): “Mai kia nước chẩy qua
cầu, nước đau nước khóc ai sầu nhớ
thương. Em đi gió quyện mùi hương. Nắng
lên suối tóc, c̣n vương nốt buồn. Lá rơi
từng chiếc bên đường. Vàng phai mầu áo
đoạn trường cung thương. Nhớ luôn
mấy độ tà dương. Vấn vương
đỉnh Ngự ḍng Hương ngập ngừng. Mai kia chạnh nhớ câu thề. Qua cầu
nước chẩy bốn bề vọng âm.”
Bài
“Gửi người dưới mộ” (thơ Đinh Hùng)
đă xót xa mà được những cung nhạc buồn
của Phạm Anh Dũng làm cho người nghe thấy
cả khung trời như chơi vơi quá đỗi:
“Trời cuối thu rồi em ở đâu? Nằm bên
đất lạnh chắc em sầu? Thu ơi đánh
thức hồn ma dậy. Ta muốn vào thăm nấm
mộ sâu. Em mộng về đâu? Em mất về đâu?
Từng đêm tôi nguyện cầu. Đây mầu
hương khói là mầu mắt xưa.”
Trong
khi đó, tính lăng mạn trong tâm hồn người
nhạc sĩ đă làm rung lên tiếng nhạc: “Em ơi! đêm thơm môt đóa quỳnh. Cùng em
hương vương không gian. Cho ta mơ say ngát t́nh.
Quyện mầu xanh thắm môi em.” (Dạ quỳnh
hương).
Đôi
khi, Phạm Anh Dũng lại thổ lộ nỗi đau
không tên về những kỷ niệm xưa như trong bài
“Nhớ Saigon”: “Biết đến bao giờ gặp
lại người xưa. Thương cho mùa mưa qua
thành phố vắng. Lang lang miệt mài
năm tháng. Bao nhiêu luyến tiếc xa ngàn. Buồn
thương vương lên mầu áo….”
Như
thế, viết về Phạm Anh Dũng, thật ra không
dễ, v́ tâm hồn của ông bao la quá, phương
diện nào cũng thấy ông chan chứa t́nh cảm.
Với hơn 400 bản nhạc viết trong môt thời
gian kỷ lục, Phạm Anh Dũng đă chứng tỏ
tuy là em nhỏ trong làng nhạc sĩ, nhưng cũng không
thua kém đàn anh mấy, cũng như Trương Vô
Kỵ, hậu sinh khả úy mà vơ nghệ tuyệt luân,
văn vơ toàn tài, chiêu nào đánh cũng ác liệt, nhưng
lại luôn nhịn nhường.
Phạm
Anh Dũng, ngoài đời sống thường nhật, là
một người khiêm cung, không v́ số lượng các
bản nhạc mà ông sáng tác, làm cho ông mất đi bản
tính yêu người và thích phục vụ tha nhân của
một Quân Y Sĩ từng chiến đấu sinh tử
bên chiến hào những năm trước 1975. Ngày cuối
năm xa quê, nghe nhạc Phạm Anh Dũng, mà tưởng
đến một chàng Vô Kỵ Anh Dũng đang hạnh phúc
bên Triệu Minh, xứng đáng cho thời gian lao tâm
khổ trí bên những cung nhạc phục vụ cho
đời.
Chu Tất Tiến,
Ngày
chờ năm Đinh Dậu.