Chương 29
“Chúng ḿnh sắp bị oanh tạc rồi”
Về
đêm, Bộ chỉ huy của Tiểu đoàn 20 Thiếp
Giáp QLVNCH được thiết lập trên một cánh
ruộng khô kề bên Quốc Lộ 1 vào khoảng vài
trăm mét phía Nam của ḍng sông. Xét trên khía cạnh thông tin
và an ninh th́ việc Lê Bá B́nh đặt
bộ chỉ huy Tiểu đoàn cùng với nhóm thiết
giáp là hợp lư nhất. Tuy nhiên nếu đứng về
mặt chỉ huy và kiểm soát th́ hơi bị thất
thế, điều mà cả B́nh cũng như Ripley
đều không ưng lắm. Mặc dù vậy anh tin là các
cấp chỉ huy Đại đội đều biết
việc và họ sửa soạn nghỉ đêm. Cả B́nh
và Ripley đều cần nghỉ ngơi nữa.
Măi
đến gần nửa đêm, B́nh và Ripley mới tạm
xong công tác bố trí và sửa soạn đi ngủ. Mặc
dù đă quá sức mệt mỏi nhưng Đại úy
Ripley không khỏi toác miệng cười khi ngó đứa
“em út” truyền tin tín cẩn của ḿnh. Bởi anh chàng Nhă
này dù mang phong cách Á Đông gan ĺ và thận trọng nhưng
khi đă mệt mỏi quá rồi th́ ai cũng thấu
suốt ḷng anh ta. Tuy chỉ nhắc khéo “đại ca”
Ripley nhưng rơ ràng là anh ta buồn ngủ lắm rồi.
Ripley gật đầu đồng ư và thân mật trấn
an anh bằng một thứ tiếng Việt pha
lẫn tiếng Anh cùng với một loạt dấu tay mà
ai cũng hiểu: “Đừng lo, tụi ḿnh đi ngủ
đây.”
Cả
hai nằm trên một mảnh ruộng khô cạnh một
trong những chiếc thiết vận xa M.113 thuộc
Bộ chỉ huy lưu động của Tiểu đoàn
20 Thiết Giáp. Họ đặt cái máy truyền tin của
Nhă ở giữa, tưong tự như bao lần nghỉ
đêm ngoài bụi với nhau. Dù rất mệt mỏi
như mọi khi nhưng giác quan của họ lúc nào
cũng ở trong t́nh trạng báo động để
sẵn sàng bật dậy mỗi khi tiếng điện
thoại vang lên.
Ripley
kê cái nón sắt làm gối như thường lệ. Anh
tháo quai nón, cho cái nón sắt ra phía sau, đặt khẩu
súng và giây ba chạc cùng với đồ nghề lỉnh
kỉnh bên cạnh ḿnh để có thể sử dụng
ngay khi cần thiết.
Măi
gần nửa đêm th́ cuối cùng Ripley mới ngả
lưng ra được. Anh gối đầu lên cái nón
sắt với hi vọng chợp mắt được một
chút. Tuy nhiên, anh có thể quả quyết là cái động
tác vừa chạm đầu vào nón sắt làm như đă
bật một cái nút công tắc nào đó khiến ḍng
điện được nối lại làm cho cả ṿm trời
phía Bắc từ Đông sang Tây tự dưng bùng lửa
lên trong nháy mắt.
Không
một ai trong nhóm binh sĩ của Tiểu đoàn Sói
Biển hay Tiểu đoàn 20 Thiết Giáp từng chứng
kiến một cảnh tượng như vậy xảy
ra trước kia. Nó giống như đột nhiên mọi
người được sống vào trong một cuốn
phim giả tưởng rẻ tiền nào đó. Từ
bốn, năm hay sáu điểm mạn Bắc gịng sông
trải qua hết chân trời, cả bầu trời
rực lửa và trong phút chốc đêm biến thành ngày.
Họ đoán đúng đây chắc là một loại
vũ khí mới mà họ chưa bao giờ thấy được
sử dụng trong chiến trận. Cảnh tượng họ
đang chứng kiến chính là từ các dàn hỏa tiễn
pḥng không SA-2 phối hợp khai hỏa đồng loạt
với nhau. Chưa có một đơn vị bộ binh
đồng minh nào được chứng kiến loại
này bắn quá gần như vậy. Trong trường
hợp có anh TQLC nào đó c̣n nuôi hi vọng được
không yểm mặc dù trước đó không lâu một
chiếc máy bay T-28 đă bị bắn rơi th́ niềm hi
vọng đó chắc hẳn đă tiêu tan nhanh chóng khi
thấy những hỏa tiễn vừa được
phóng lên bầu trời t́m kiếm những mục tiêu vô
h́nh nào đó.
Hỏa
tiễn bắn hàng loạt làm rúng động mọi
người, ngay cả Ripley. Tuy vậy Ripley, B́nh, Nhă hay ai
đó trong Bộ chỉ huy đều không đến
nỗi khiếp sợ quá đáng đến nỗi họ
không thể ráng dỗ được giấc ngủ trong
một vài tiếng đồng hồ trong khi những
người khác ngoài bờ sông vẫn tiến hành công tác
bảo vệ Đông Hà một cách kiên tŕ.
LỮ ĐOÀN 369 HÀNH QUÂN ĐẾN PHÚ
BÀI
Chuyến
bay đêm từ Sài G̣n ra Phú Bài của Đại úy Philip
khác hẳn chuyến trước đó trong ngày khi anh bay
từ Honolulu qua. Trở về từ vùng quần
đảo, George đă có thời gian ngủ nghê mặc dù
không phải dễ dàng ǵ cho cam. Anh đă có cơ hội ăn uống và quá nhiều th́ giờ
để suy ngẫm về cái hiện trạng không
phấn khởi lắm tại nơi mà anh đang quay
trở lại. Anh chẳng có ai để mà nói chuyện
ngoại trừ thỉnh thoảng trao đổi vài
mẩu chuyện tầm phào với một cô tiếp viên hàng
không chán ngắt. Thật là một cảm giác kỳ lạ
khi trở ra mặt trận trong một chuyến tàu
gần như là trống không. Cảnh tượng anh là
người hành khách duy nhất trong chuyến bay đè
nặng lên tâm trí viên đại úy trẻ. Điều này
giống như tượng trưng cho nỗ lực
của đất nước Hoa Kỳ đang muốn
bỏ quên và toan tính kế hoạch hậu chiến tại
Việt Nam.
Chiếc
C-130 chở George và Bob Sheridan, giống như những
chiếc khác đang yểm trợ cho công tác tăng
viện đầy kịt người và vật dụng.
Sự thoải mái cho hành khách nếu có được
lưu tâm trước đó th́ nay là mối bận tâm
thấp nhất. Trong gần suốt cuộc hành tŕnh
cả hai viên cố vấn bàn thảo với nhau lớn
tiếng hơn b́nh thường do tiếng động
ồn ào trong khoang tàu. Họ hoàn toàn không nắm
được t́nh h́nh và không biết phải cần t́m
hiểu điều ǵ đây. Cả hai lo lắng về
sự bố trí của các đơn vị TQLC Việt Nam
và chuyện ǵ đă xảy ra cho các bạn bè cố vấn
Hoa Kỳ phối trí dọc theo vùng Tây Bắc của
tỉnh Quảng Trị.
Trong
giai đoạn này của cuộc tổng công kích, sự
hỗn loạn vẫn bao trùm khắp nơi, c̣n thông tin liên
lạc th́ rất chập chờn. T́nh h́nh chiến sự
tổng quát chưa được thông tin xuống các
đơn vị tăng viện. Quân lệnh đầu
tiên là tung Lữ đoàn 369 TQLC Việt
Nam vào nơi nào cần thiết nhất trong trận
địa. Kế hoạch chi tiết dĩ nhiên sẽ
đến sau, cả Thiếu tá Sheridan và Đại úy
Philip đều đoán chừng như vậy.
Vào
lúc quá nửa đêm th́ những chiếc C-130, cách nhau
bốn hay năm phút, bắt đầu lần lượt
đáp xuống phi đạo Phú Bài và khởi sự
việc tải quân xuống trong lúc phi cơ vẫn nổ
máy. Thiếu tá Sheridan và Đại úy Philip có mặt trên
một trong những chiếc đó. Vừa khi các binh sĩ
và quân dụng được hối hả lôi xuống xong
th́ từng chiếc máy bay lại rồ máy và cất cánh
ngay để cho chiếc C-130 tiếp đó có thể
hạ cánh được. Sự hiện diện của
Lữ đoàn 369 và các đơn vị phụ thuộc khác
có thể là một cảnh tượng đáng nể, mang
lại sự yên tâm nếu được thực hiện
ban ngày và đồng loạt. Tuy nhiên hai trong số ba
Tiểu đoàn tác chiến thuộc Lữ đoàn 369 là
Tiểu đoàn 2 và Tiểu đoàn 5 đă đáp xuống
trước Sheridan và Philip, sau đó đă được
điều động tức khắc lên phía trước
để về một nơi nào đó của thành phố
Quảng Trị. Hai viên cố vấn không xác định
được vị trí của họ nhưng hi vọng
ban ngày sẽ t́m ra. Tiểu đoàn 3 và Tiểu đoàn 9 sau
đó sẽ đến vào buổi sáng hôm sau cùng với
Lữ đoàn trưởng là Đai tá
Chung.
Cuộc
xâm lăng của địch quân vẫn c̣n xa ở mạn
Bắc của Phú Bài, do đó mọi chuyện tại
địa phương vẫn c̣n tương đối
yên tĩnh, tuy thỉnh thoảng người ta có thể
nghe được tiếng súng ngắn trong phố hay
từ các làng mạc lân cận quanh đó. Các binh sĩ TQLC
Việt Nam đi cùng hai viên cố vấn Hoa Kỳ tổ
chức pḥng thủ chu vi phi
trường. Nhờ vậy mọi người có dịp
được ngủ nghê một vài tiếng đồng
hồ trong đêm.
Nói chung, đêm đó vô sự, nếu so sánh
với những ǵ mà các Sói Biển và Ripley đang phải
đương đầu. Mặc dù chưa đụng trận
nào nặng nề nhưng Philip đă có mặt trở
lại tại Việt Nam, hay gần như vậy, “xa
như thể Đông Tây cách trở.” Nằm cạnh Bob
Sheridan, Đại úy Philip không thể cưỡng lại ư
tưởng không làm sao tránh khỏi trong lúc anh thiếp vào
giấc ngủ trên những cái thùng đạn bích kích pháo
81 ly dùng làm giường dă chiến: “Cách đây chưa
đầy 24 tiếng đồng hồ, ḿnh c̣n đang
ở Hawaii nơi mà nỗi lo lắng nhất chỉ là da
bị cháy nắng.” Sáng hôm sau th́ họ di chuyển về
hướng Bắc và trở vào ḷ nung.
"CHÚNG M̀NH SẮP BỊ OANH TẠC
RỒI"
Giấc
ngủ mà Gerry Turley đang cần đến một cách
tuyệt vọng cuối cùng cũng đến nhưng
tuyệt nhiên không thoải mái chút nào. Chẳng có cách nào làm
cho nhẹ đầu, và mặc dù sau cùng anh cũng từ
từ ch́m vào một giấc ngủ dài nhất trong bốn
ngày qua, và thầm cám ơn được xả hơi,
nhưng anh lại bị đánh thức dậy một cách
đột ngột.
Turley
đă chuyển giao quyền hành cho Thiếu tá Jon Easley, tay TQLC Hoa Kỳ phụ trách công việc
cố vấn tại Trung Tâm Hành Quân trong khi Gerry ở
Việt Nam. Trước khi bắt đầu thiu thiu
ngủ, Gerry ngó đồng hồ lần cuối, lúc đó
là 23 giờ 45 phút.
Lúc
anh bị đánh thức dậy bởi Thiếu tá Regan
Wright, một trong những cố vấn Pháo Binh TQLC Hoa
Kỳ làm việc tại Trung Tâm Hành Quân Ái Tử, th́
mới vào khoảng 2 giờ 40 khuya, tức chưa
đầy ba tiếng đồng hồ sau. “Trung tá dậy
ngay, chúng ḿnh sắp bị oanh tạc rồi!”
Giống
như lần trước, khi các viên Đại tá kỳ
cục từ Sài G̣n đến thị sát, như thể
đến từ một xứ sở không hiện thực
nào đó, th́ anh lại phải tự nhủ là ḿnh không
hoang tưởng. Anh ước đó chỉ là một
cơn ác mộng. Nhưng không. Bây giờ anh đă tỉnh
hẳn và Thiếu tá Wright không nói rỡn. Mọi chuyện
tuồng như trong chương tŕnh TV “Hu’s on First?, Keystones Cops và Candid Camera” cộng lại và
cường điệu hóa lên. Ít nhất là lúc này anh không
c̣n lo nghĩ chuyện ǵ xấu hơn có thể xảy ra
nữa.
“Thiếu
tá Wright, chuyện quái ǵ đang xảy ra vậy?”
“Tụi
nó sắp bầm xác bọn ḿnh!”
“Từ
từ cái đă? Regan, nói lại xem…”
“Chúng
nó sắp oanh tạc ḿnh, bọn B-52 sắp sửa dội
bom ḿnh.”
“Mẹ
kiếp. Kể tôi nghe xem…"
“Dave
Brookbank vừa được báo là ḿnh phải núp ngay.
Tụi nó sắp san bằng Ái Tử.”
“Tụi
nó không có quyền làm chuyện đó. Ḿnh c̣n ở đây
mà?”
“Họ
không biết.”
“Ông
nghĩ c̣n bao lâu nữa th́ ḿnh lănh bom?”
“Hai
mươi phút!”
Cố
gắng tận mạng để được nghỉ
ngơi một chút trước khi gặp đao phủ thủ.
Có thể Turley sẽ khỏi phải ra tŕnh diện
một cách bực bội tại MACV v́ chẳng mấy
chốc anh sẽ bị tan xác bởi chính Không lực Hoa
Kỳ rồi. Sau này mới rơ ra là khói mù chiến tranh
chẳng bao giờ tan hay giảm đi chút nào. Khi tay Đại tá quân đội Hoa Kỳ
cố vấn trưởng cho Tướng Giai dời
bản doanh xuống phía Nam thành phố Quảng Trị, ông
đă báo cáo cho Sài G̣n. Nhưng điều mà hắn quên nói
là hắn vẫn để các nhân viên phụ trách hỏa
lực yểm trợ ở lại căn cứ Ái Tử.
Các chiến lược gia tại Sài G̣n do đó có cảm
giác là toàn bộ căn cứ Ái Tử đă
được di tản và hiện đầy nhóc quân
Cộng sản ở đó. Chẳng ai nghĩ tới
chuyện kiểm tra lại và do đó một người
nào đó, tại một nơi nào đó, có thể từ
Sài G̣n, đă cho rằng quyết định "khôn
ngoan" nhất là hủy diệt Ái Tử bằng
chiến thuật ARCLIGHT.
Turley
vội vă phóng nhanh về Trung tâm hành quân TOC. Dave Brookbank và
một số người khác chung quanh
anh đang cố gắng liên lạc với Sài G̣n nhằm
can thiệp chuyển hướng hay hủy bỏ công tác.
Họ chẳng gặp may mắn chút nào. Giữa những
cuộc điện đàm lúc được lúc mất,
dường như các oanh tạc cơ đang bay
đến gần và chẳng mấy chốc sẽ thả
bom thôi.
Một
trong những điều mà Không Lực Hoa Kỳ tự hào
nhất là sự tận tâm nhiệt t́nh đánh bom vào trúng
mục tiêu theo đúng kế hoạch
đă được soạn thảo trước một
cách tỉ mỉ. Thả bom đúng mục tiêu và đúng vào
thời điểm đă được dàn dựng là
một phần quan trọng nhất trong công việc
thần thánh của họ. Chỉ có Chúa mới can
thiệp nổi và có thể làm họ nghĩ đến
chuyện thay đổi kế hoạch, tuy là chỉ
miễn cưỡng mà thôi.
Tại
bộ phận thông tin liên lạc của Trung Tâm Hành Quân
người Mỹ có máy điện thoại với
tần số khẩn cấp liên lạc được
với các phóng pháo cơ B-52. Phương tiện này
gọi là GUARD. Giờ đây không thể gọi
được đại bản doanh cao cấp hầu can
thiệp, hi vọng duy nhất c̣n lại là thử gắng
liên lạc thẳng với các máy bay đang tiến gần
thông qua hệ thống GUARD. Tuy nhiên dù họ có thể
gọi qua các tần số đó nhưng không một ai
trong Trung Tâm Hành Quân có cách nào để xác nhận danh tánh
nhằm các phi công trên cao có thể biết người
dưới đất là ai. Giống như một màn
"diễu dở" lấy ra từ bộ phim Dr. Strangelove, Thiếu tá
Brookbank tựa như nhân vật Peter Sellers đóng vai tay
sĩ quan Không Lực Hoàng Gia Anh cố gắng gọi
hủy bỏ lệnh tấn công Liên Sô điên rồ
của viên tướng khùng Jack D. Ripper người Mỹ.
Điểm khác biệt là hành động của Brookbank
không phải là chuyện đùa. Chẳng có ǵ là rỡn
chơi trong lúc này cả.
Brookbank
không nắm trong tay quyền hành và các
mật mă nhằm hủy bỏ hay rút lại công tác hành
quân. Phi hành đoàn các B-52 hẳn có đủ tài nghệ
để xác minh sự chân thực của anh. Nhưng
nếu chẳng may họ lại nghĩ là địch
thủ cho người giỏi sinh ngữ để
lừa họ, hay có thể đang tạo áp lực
đối với các tù binh Hoa Kỳ trong âm mưu này?
Mọi người trong Trung Tâm Hành Quân chỉ biết
cầu nguyện và hầu hết đă bắt đầu
chắp tay lại mong phi hành đoàn trên
những chiếc máy bay tin họ một phần nào.
Khi
bước vào khu vực thông tin trong hầm trú ẩn, Gerry
nhận thấy Brookbank đă thực hiện tất
cả những ǵ có thể làm được rồi.
Nhưng anh vẫn ra lệnh: " Dave,
dùng GUARD và bảo tụi nó ḿnh c̣n ở đây. Nói cho
họ biết anh thuộc phi đoàn nào. Nói luôn anh
được huấn luyện tại đâu. Cho họ
biết bạn bè cùng đơn vị của anh và tên
tuổi của mấy tay chỉ huy. Nói
luôn anh đi học phi hành tại trường nào và vào lúc
nào... Cứ nói măi, đừng ngừng..."
Thiếu
tá Brookbank bắt đầu nói liên tục trong máy
điện đàm và những người chung
quanh cũng châu đầu vào nôn nóng đóng góp ư kiến nên
nói cái ǵ và thêm bớt điều ǵ. Brookbank nói không
ngừng trong nhiều phút. Trên thực tế Hệ
thống GUARD được thiết kế một chiều
và không có chuyện trao đổi liên lạc trong tần
số này. V́ vậy không có chuyện xác nhận thông tin
đă nhận được hay không. Do đó mọi
người trong Trung Tâm Hành Quân chỉ có thể phỏng
đoán – và cầu nguyện – là những phi hành đoàn trên
cao đă nghe được họ. Cách duy nhất biết
có nhận được thông tin và tin tưởng hay không
là họ sẽ bị banh xác hay không mà thôi.
Thiếu
tá Brookbank nói măi, kể cả các thông tin cá nhân về ḿnh,
tất cả những ǵ để cho thấy anh đích
thực là một người Mỹ c̣n đang sống và
thở năm chục ngàn bộ ngay chính giữa cái chữ
thập kính tọa độ dội bom của họ.
Chẳng có một xác nhận nào từ chiếc máy bay
đang ở đâu đó trên cao độ chín dặm trên
đầu họ. Không ai biết chắc chắn khi nào th́
các phóng pháo cơ đến khu vực thả bom cả.
Trong lúc Brookbank vẫn đang nói th́ mọi người
trong Trung Tâm Hành Quân nh́n lên nóc trần vài bộ trên cao,
tựa như họ có thể thoáng thấy được
những trái bom đang rơi xuống căn cứ Ái
Tử và chứng kiến chúng chạm vào mục tiêu trong
một phần triệu giây trước khi họ bị
tan thành tro bụi vậy.
Sự
căng thẳng trong Trung Tâm Hành Quân TOC chưa bao giờ lên
cao độ như trong lúc này. Sau tất cả những ǵ
đă trải trong mấy ngày vừa qua, sau tất cả
những ǵ họ đă cố gắng phối hợp,
cứu văn và hoàn thành, th́ nếu mọi chuyện phải
kết thúc v́ lỗi lầm của chính phe ḿnh th́ quả là
một sự trớ trêu khủng khiếp của số
mạng.
Thiếu
tá Brookbank tiếp tục nói. Anh cho họ biết tọa
độ của Trung Tâm Hành Quân. Anh cho cả tên của
vợ và nơi cô đang ở. Anh tiếp tục liên
lạc bằng cái mi-crô-phôn với hi vọng những
lời nói của anh được phóng lên không trung và
được tiếp nhận qua hệ thống GUARD
bởi nhóm phi hành đoàn B-52 bay tít trên cao khiến họ
hiểu ra là c̣n có sự hiện diện của
người Mỹ và đồng minh VNCH bên dưới này
tại căn cứ Ái Tử.
Nếu
bom được thả xuống từ độ cao 50
ngàn bộ th́ thời gian chạm nổ chỉ mất vài
phút đồng hồ. Brookbank nói liên tục. Thời gian
chầm chậm trôi qua và Brookbank vẫn c̣n nói.
Khi
đồng hồ điểm thời gian bom nổ th́
sự căng thẳng trong Trung Tâm Hành Quân lên cực
độ. Mọi người vẫn ngó chằm chặp
lên trần của hầm trú ẩn. Brookbank vẫn tiếp
tục nói. Cái kim dài đồng hồ
lớn trên tường Trung Tâm Hành Quân bên cạnh bản
đồ hành quân nhảy qua cái thời hạn đáng
lẽ là bom phải nổ rồi. Sự căng thẳng
vẫn không hề giảm đi chút nào v́ chưa chắc
đồng hồ được vặn đồng
bộ với thời gian trên các phóng pháo cơ. Một phút
trôi qua. Brookbank vẫn c̣n nói. Sự căng thẳng vẫn
c̣n cao. Một phút nữa trôi qua mà chưa thấy ǵ cả.
Brookbank tiếp tục lải nhải. Một phút nữa
rồi thêm một phút nữa trôi qua. Đă năm phút rồi
mà họ vẫn c̣n sống sót, mặc dù chưa hết
căng thẳng.
Không
Lực Hoa Kỳ nổi tiếng lúc nào cũng đúng
giờ. Đặc biệt là tại Bộ Chỉ Huy
Chiến Lược, bộ phận sở hữu toàn
bộ các B-52, công tŕnh gây dựng lên, và cũng là niềm
vui, sự tự hào của tướng Curtis Lemay –
"Bom" Lemay – nhân vật mà sự tính toán chiến
lược bao gồm cả việc hủy diệt
hữu hiệu một cách khủng khiếp các thành phố
Nhật Bản bằng bom trong thời Đệ Nhị
Thế Chiến. Ông hiện có lẽ là người Hoa
Kỳ có nhiều quyền lực nhất trong Chiến
Tranh Lạnh. Ông chắc chắn sẽ sạc te tua những thằng con nào trong những
chiếc máy bay của ông đă không thi hành nhiệm vụ
hay không thả bom đúng thời hạn đă định.
Sáu phút trôi qua, rồi bảy... và mười phút. Những
chiếc B-52 không bao giờ xác nhận có nhận
được điện đàm bên dưới hay không.
Sau hai mươi phút th́ có lẽ tai
họa đă qua rồi. Sự căng thẳng giảm
dần cường độ. Mọi người bắt
đầu thở ra nhẹ nhơm nhưng cảm thấy
mệt mỏi nhiều v́ quá sức kích thích và v́ lượng
a-drê-na-lin trong máu. Phi hành đoàn các chiếc B-52 có lẽ
đă tin vào lời Dave Brookbank, người hùng trong giờ
phút này của Trung Tâm Hành Quân Ái Tử.
Sự
nguy hiểm đă giảm nhiều nên mọi người
đă có thể tập trung trở lại vào công tác
chận đứng sức tấn công không hề giảm
của những toán quân Cộng sản. Các phương
tiện trong tay càng lúc càng ít ỏi
dần. Không lạ chút nào là Gerry Turley không c̣n nghĩ
đến chuyện ngả lưng đi ngủ trở
lại nữa trong suốt đêm hôm đó.
Lên đường đến Phú Bài
Sáng sớm Thứ Hai 3 Tháng 4 năm 1972
Khi
Trung tá Gerry Turley rời Trung Tâm Hành Quân Ái Tử vào sáng
sớm Thứ Hai th́ anh không rơ là anh sẽ trở lại
hay không. Anh từ giă nhiệm vụ chỉ huy với
niềm tin tưởng đă thực hiện tất
cả những ǵ anh có thể làm được để
chiến đấu một trận đánh để
đời. Anh đă đổ ra 100% tâm trí từ thời
điểm anh tạm thời nắm quyền chỉ huy
tuy không chính thức nhưng lại là chính thức và hợp
pháp mà lại không hợp pháp. Bây giờ anh trở về
cái nơi để anh sẽ được đánh giá
bởi những người mà anh tin chắc là sẽ không
nhân nhượng và đếm xỉa ǵ đến
những ư kiến của anh, hay tỏ ra thông cảm
những hoàn cảnh mà anh buộc ḷng phải đối
phó.
Gerry
Turley vừa mới hoàn tất bốn ngày không nghỉ
để phối hợp trận chiến căng thẳng
nhất trong đời, nhằm chống lại kẻ thù
Cộng sản quyết tâm và đông hơn gấp bội
về quân số. Bây giờ anh phải trở về
một hướng khác phía sau để đối phó
với cái cơ quan MACV mà anh tin rằng họ sẽ coi anh
là một sự phiền hà nặng nề, hay tệ
hơn, liệt anh vào một loại đối thủ nào
đó. Anh nghĩ thà tiếp tục ở lại Trung Tâm
Hành Quân đối phó với Cộng quân c̣n hơn. Ít
nhất nhiệm vụ đó c̣n đơn giản hơn
nhiều.
Nhóm
sĩ quan Việt Mỹ dưới quyền chỉ huy
của Turley, tập hợp với nhau trong những hoàn
cảnh khó khăn nhất đă biến thành một toán
hoạt động có hiệu quả và biết tính toán
trước. Giờ đây họ đă kiệt sức
nhưng vẫn c̣n tích cực giáng cho địch quân
những sự khó khăn không ai có thể ngờ
được.
Trong
24 tiếng đồng hồ vừa qua, t́nh h́nh bộ
chiến đă khả quan hơn. Sự phá hủy cây
cầu Đông Hà đă làm chậm bước tiến
tưởng chừng không chận nổi của guồng
máy chiến tranh khổng lồ của Cộng quân. Sự
kiện phá sập cây cầu tuy mang lại thời gian
cần thiết cho quân Đồng minh, cho Turley và những
người trong TOC, nhưng đă phần nào bị lăng phí
v́ toan tính xem ra tuyệt vọng nhằm cứu toán phi hành
mang số hiệu Bat-21 do bởi sự giới hạn
hỏa lực yểm trợ cấp thiết. Thủy Quân
Lục Chiến Việt Nam tuy kém hẳn quân số một
cách khủng khiếp trên khắp mặt trận, vẫn
giáng những đ̣n đẫm máu lên quân Bắc Việt
tại tất cả những điểm có giao tranh.
Vào
sáng Chủ Nhật th́ mặt trận yên tĩnh hẳn
tại Đông Hà. Công tác pḥng thủ bờ phía Nam của
sông Cửa Việt vẫn tiến hành suốt đêm cho
đến sáng sớm, hầu hết là ngay tại bờ
sông. Tờ mờ sáng, sau khi ngủ được ba
bốn tiếng đồng hồ, B́nh và Ripley đến
kiểm tra vị trí pḥng thủ của các Đại
đội. Cả hai trông thấy một số xác chết
của Cộng quân bị banh xác một cách khủng
khiếp. Những tên này bằng cách nào đó vượt
qua được sông nhưng bị rơi vào hỏa
lực phối hợp của TQLC và thiết giáp. Các binh
sĩ Sói Biển đều đoan chắc là rằng
những thây ma này chỉ là một tỉ lệ nhỏ
của lực lượng địch âm mưu
vượt sông bất thành trong màn đêm dưới
hỏa lực của phe ta. Số thương vong c̣n
lại – không rơ là bao nhiêu – không qua nổi ḍng nước
chảy xiết của sông Cửa Việt và các xác chết
đă bị cuốn trôi theo sông và có
lẽ đă dạt vào Biển Đông rồi.
Khi
mặt trời mọc sáng khắp Vùng I Chiến Thuật,
các binh sĩ của Tiểu đoàn Sói Biển tuy kém
hẳn về quân số rất nhiều nhưng vẫn
đóng trụ được tại Đông Hà. Kẻ thù
rơ ràng đă lợi dụng bóng đêm để chuyển
quân, ít nhất là một phần nào đó lên thượng
nguồn về phía Cam Lộ.
Ngoài
các Sói Biển tại Đông Hà, lực lượng bộ
binh Đồng minh phía Bắc Tỉnh Quảng Trị c̣n
khả năng chiến đấu là các TQLC của Lữ
đoàn 147 và 258. (Tiểu đoàn 3 hiện thuộc Lữ
đoàn 258). Nơi nào c̣n TQLC Việt Nam th́ quân Bắc
Việt phải đổ quân và phương tiện quân
sự vào trận chiến với tốc độ cao
hơn là họ đă tính toán trước.
Trận
đánh tại Mai Lộc dữ dội một cách
đặc biệt. Vào cùng thời điểm Tiểu
đoàn 3 bận giao tranh tại khu vực gịng sông và cây
cầu Đông Hà th́ các TQLC thuộc Lữ đoàn 147
tại căn cứ hỏa lực Mai Lộc cũng
đối mặt với t́nh trạng quân Bắc Việt
đông hơn gấp bội. Dưới áp lực nặng
nề và không ngừng của kẻ thù, rơ ràng là căn
cứ hỏa lực không thể chống giữ nổi.
Ngay trước khi căn cứ Carroll bất ngờ đầu
hàng, Lữ đoàn trưởng 147 là Đại tá Bảo
cùng với viên cố vấn Hoa Kỳ cao cấp là
Thiếu tá Jim Joy đă nghĩ tới t́nh huống như
vậy có thể xẩy ra và đă soạn thảo kế
hoạch vừa chiến đấu vừa triệt thoát.
Đến
6 giờ chiều ngày Chủ Nhật th́ Lữ đoàn 147
mất hầu hết các phương tiện liên lạc v́
hàng rào pháo binh Cộng sản đă hủy diệt tất
cả các cần ăng-ten dùng để liên lạc xa. Các
khẩu trọng pháo của Lữ đoàn cũng đă
bắn gần hết đạn dược do đó đă
có lệnh phá hủy toàn bộ. Sau đó th́ các đơn
vị khác nhau của Lữ đoàn 147 lần lượt
di tản chiến thật ra khỏi các vị trí
dưới áp lực hết sức nặng nề của
pháo binh và bộ binh địch. Bằng cách nào mà họ
đă hoàn thành được nhiệm vụ và giữ
được sự vẹn toàn của đơn vị
là bằng chứng hùng hồn cho thấy công tác huấn
luyện và tinh thần chiến đấu phi
thường, cũng như sự chỉ huy quả
cảm của mọi cấp trong binh chủng TQLC Việt
Nam. Đồng thời, các cố vấn Hoa Kỳ cũng
đă đóng vai tṛ then chốt yểm trợ cho chiến
dịch di tản, trong đó có Jim Joy và Andy De Bona. Sự
phối hợp tập thể Việt Mỹ đă
khiến cho Lữ đoàn bảo toàn được
hầu hết lực lượng hầu có thể
chiến đấu trở lại trong những ngày tháng
sắp tới trong các hoàn cảnh thuận tiện hơn.
Trước
khi rời hầm trú ẩn của Trung Tâm Hành Quân TOC, Turley
đă nghĩ đến chuyện mang theo
một trong những tấm bản đồ hành quân mà
họ đă sử dụng để đánh dấu
bước tiến của quân Bắc Việt. Tấm
bản đồ này được bọc plastic và treo trên
tường giống như một bức tranh vẽ
căng trên khung gỗ vậy. Turley dùng con dao chiến
đấu K-Bar của anh để gỡ tấm bản
đồ ra khỏi cái khung. Tất cả các vị trí và
căn cứ hỏa lực rơi vào tay
địch quân đều được gạch chéo
đậm bằng một cây bút mỡ đỏ có
viết kèm theo cả ngày và giờ bị thất thủ.
Những con dấu "X" trải khắp Vùng I
Chiến Thuật đă diễn tả một câu chuyện
linh hoạt chẳng cần phải giải thích nhiều.
Gerry cẩn thận cuộn tấm bản đồ
lại và cất vào một trong những cái túi quần
trận phía dưới bắp chân. Anh định sẽ
dùng tấm bản đồ này để báo cáo với
MACV.
Trời
tờ mờ sáng th́ Gerry "chính thức" giao lại
quyền hành phần việc anh trong Trung Tâm Hành Quân cho Jon
Easley. Một Trung sĩ TQLC Việt Nam mặt dày dạn
sương gió được cử làm tài xế xe jeep cho
chuyến đi 80 cây số từ Ái Tử đến Phú
Bài. Chuyện có một chiếc xe c̣n sót lại mà lại
chạy nổi sau cơn mưa pháo kích khắp mọi
nơi trong ṿng 96 tiếng đồng hồ vừa qua thật
là một phép lạ.
Với
những hoàn cảnh khác hơn là hiện tại, và có
một tài xế TQLC tài ba th́ chuyến đi chỉ mất
khoảng một tiếng đồng hồ, hoặc
tối đa là 90 phút. Ngoại trừ những lần
"trút bầu tâm sự" trên thảm cỏ của
tướng Giai bên cạnh một chiếc xe
jeep bị cháy nát, hay thỉnh thoảng quan sát nhanh t́nh h́nh
chung quanh Ái Tử từ cánh cửa ra vào hầm trú ẩn,
th́ Turley chưa hề ra ngoài trong suốt cuộc bao vây. Do
đó những ǵ anh trông thấy, những tiếng
động, mùi vị, sự hủy diệt dữ dội
khi lần đầu tiên ló đầu ra khỏi hầm trú
ẩn đă làm anh bàng hoàng.
Khi
cả hai bắt đầu khởi hành đi Phú Bài về
hướng Nam trên Quốc lộ I th́ ngay lập tức
họ nhận thức được cơn kinh hoàng đă
giáng lên đầu dân cư địa phương. Trên
tất cả các con đường từ Ái Tử xa
đến phía Nam là Quảng Trị, tổng cộng vào
khoảng sáu cây số, dân chúng chen chúc nhau trốn chạy
khỏi các vùng phía Bắc của tỉnh Quảng Trị
dưới những cuộc pháo kích bừa băi nhưng
cố ư của địch quân. Trên quăng đường này
của Quốc lộ I, tài xế của Gerry đă
buộc ḷng phải cho xe chạy
chẳng nhanh ǵ hơn là các nạn nhân chiến cuộc mà
họ vượt qua mặt. Anh t́ lên cái c̣i yếu ớt
của chiếc xe jeep mà chẳng được ích lợi ǵ
mấy, giống như Turley thường thấy qua kinh
nghiệm sống tại những vùng Á Châu.
Gerry
cố không nh́n chằm chằm, cố gắng giữ
một thái độ khách quan, b́nh thản và lạnh lùng
nhưng đối với một con người b́nh
thường, không ai có thể thoát nổi sự ghê gớm
của niềm đau thương đang xảy ra ngay
đàng trước mặt anh, bên phải, bên trái và đàng
sau. Viên tài xế của Gerry với h́nh dáng rắn rỏi,
và có lẽ đă thâm niên công vụ với độ
tuổi mà Turley không đoán nổi, không nói được
tiếng Anh. Trong khi đó th́ Turley chưa hề trải qua
một khóa huấn luyện Việt ngữ bao giờ và
số vốn ngữ vựng th́ chỉ vừa
được tăng thêm chút ít trong những ngày vừa
qua. Do đó trong chuyến đi cả hai giữ im lặng
gần như là tuyệt đối.
Họ
vượt qua một biển cả của nhân loại:
hàng ngàn và hàng ngàn đàn ông đàn bà, trẻ nhỏ, bô lăo,
người tàn tật. Rơ ràng là một số bao gồm
cả những gia đ́nh, số khác th́ có vẻ bàng hoàng
không c̣n cảm giác ǵ với sự khủng khiếp
nữa. Tất cả đều di chuyển về phía Nam.
Họ mang theo mọi thứ c̣n đáng
giá nhất, trẻ nít được mẹ cơng,
người lớn th́ bồng bế mấy em nhỏ, cùng
với những của cải ít ỏi hay thực phẩm
các loại họ có thể vác theo được trên vai hay
bỏ trên những thứ ǵ có gắn bánh xe cũng
được. Có những đứa trẻ chỉ
trạc tuổi con của Gerry là Bob và Chris th́ chăn
những con trâu có vẻ rất thành thạo.
Vừa
rời khỏi Ái Tử trên vài cây số đầu tiên,
Gerry có thể thấy ngổn ngang những chiếc xe bị cháy đen, xe đạp găy nát và
những chiếc xe ḅ bị lật gọng. Xác thú vật
và vài thây người nằm thối rữa ngay tại
chỗ khi bị đạn pháo kích quân Bắc Việt
bắn chết. Chỗ nào cũng có mùi thịt và
đồ vật bị thiêu cháy. Khi di chuyển xuống
phía Nam ra khỏi tầm bắn của pháo binh Bắc
Việt th́ sự tàn phá trên đường giảm
dần. Những chứng cớ của một nền kinh
tế tự do chớm phát triển mà Gerry nhận thấy
chưa đầy một tuần lễ qua trên chuyến
trực thăng với Jim Joy giờ đây đă biến
mất.
Trong
các nhà văn Tây phương viết về Á Châu mà Turley
đă từng đọc th́ những giây phút hiện
tại mà anh đang trải qua thật giống như
những cảnh xáo động nhất trong tiểu
thuyết của Pearl Buck được làm sống
lại. Nhà văn Buck có một phong cách độc đáo
khi đóng khung, mổ xẻ và sau đó diễn tả
lại những sự tương quan phức tạp trong
nền văn hóa Á đông bằng những từ ngữ
thật đơn giản. Hơn bất cứ
người nào khác mà Turley biết, tác giả Buck có khả
năng diễn tả bằng sự cảm thông và trân
trọng niềm đau thương mà từ lâu
người Á đông vẫn phải chịu đựng.
Sự khổ đau này đến với tất cả
mọi người nhưng đặc biệt là tầng
lớp nông dân là thành tố đông nhất trong xă hội
bất kỳ quốc gia Á Châu nào. Trong lối viết
của Buck, sự thống khổ được gắn
liền phần lớn với các chu
kỳ của mùa màng, với nạn đói và hạn hán,
thực phẩm và dịch bệnh. Sự khổ đau
của nhân loại đi cùng với cuộc sống chung trong nét văn hóa Đông phương,
với ḷng thủy chung và sự phản bội, ḷng tham,
sự sân si và hận thù. Đồng thời kèm theo là sự tương quan tuy có nề
nếp nhưng rất phức tạp giữa nam và nữ,
t́nh phụ tử cũng như t́nh mẫu tử với
nhau.
Nhà
văn Buck đă nắm bắt rất tài t́nh và chuyển
thành từ ngữ để người Tây phương có
thể hiểu được ḷng cam chịu một cách
khắc khổ những sự bất hạnh mà hiện
nay những người chung quanh Gerry
Turley đang phải trải qua. Anh có cảm giác như
được sống lại trong một phiên bản tân
thời hơn của những điều đă
được viết ra cách đây không lâu. Nếu Pearl
Buck đang đi cùng anh, nếu nhà văn nữ này đang
ngồi ghế sau trên chiếc xe jeep hay đi bộ bên cạnh họ, từng
bước đến Quảng Trị th́ bà ta hẳn là
đă có thể diễn tả sự thống khổ và
niềm đau thương, đặt nó vào trong bối
cảnh lịch sử thích ứng và so sánh với những
ǵ đă viết trước kia. Và trên thực tế,
trải qua tất cả các cuộc chiến trước
kia trong lịch sử Việt Nam hơn hai ngàn năm mà
sự xung đột và đấu tranh không hề vắng
bóng, với các cuộc xâm lăng liên tiếp nhau và công
cuộc đấu tranh liên tục chống ngoại xâm hay
độc tài thống trị trong nước, sự khác
biệt duy nhất là niềm thống khổ hiện
tại đang giáng lên đầu người dân mang
một sắc thái tân thời hơn. Cuộc sống
vẫn phải trôi qua mà thôi.
Khi
anh tài xế của Gerry len lách chiếc xe
jeep một cách tài t́nh qua
những đám đông trong thành phố Quảng Trị và
ở ngoại ô th́ đám người bắt đầu
vắng dần ở phía Nam của thị trấn. Mặc
dù vẫn c̣n xúc động trước những nghịch
cảnh và đau khổ vừa chứng kiến, Turley
cũng băn khoăn trước những ǵ đang
chờ đợi anh tại MACV và thật ḷng cũng không
muốn vội vă ǵ đi lên "đoạn đầu
đài" của chính ḿnh đặt tại Sài G̣n.
Giữa chuyện cảm thông với tấn bi kịch chung quanh anh và sự thoải mái tương
đối của chiếc ghế trên chiếc xe jeep, anh chọn điều
sau. Anh ngả lưng ra và rơi vào một giấc ngủ
vật vờ trên đoạn cuối của cuộc hành
tŕnh. Tuy hết sức mệt mỏi nhưng anh vẫn
giữ một tâm trạng sẵn sàng và chuyển sự suy
nghĩ từ thực tế với những người
dân bất hạnh qua những điều khó chịu có
thể đang chờ đợi anh tại MACV. Chứng
kiến không biết bao nhiêu là phụ nữ và đám trẻ
em vô tội nạn nhân chiến cuộc của cuộc xâm lăng đang diễn tiến, đa số
có thể chỉ trạc tuổi Bunny và năm đứa
con thân thương đă khiến anh nhớ nhà vô cùng.
Cách
Phú Bài vào khoảng hai mươi cây số th́ họ trông
thấy dấu hiệu đầu tiên của phe bạn
đang tăng viện lên. Họ gặp nhiều đoàn xe
jeep và vận tải
chứa đầy lính TQLC vừa mới bay đến Phú
Bài, cùng với các rờ-moọc kéo theo chiến cụ hay
những khẩu trọng pháo 105 ly di chuyển lên
hướng Bắc vào vùng pḥng tuyến bị chọc
thủng. Họ vẫy tay chào khi đi
ngang và cả Gerry lẫn anh tài xế đều vẫy
lại. Gần phi đạo mươi cây số th́
cả hai có thể trông thấy trước mặt và trên
cao một số máy bay, rơ ràng là C-130 đang nối đuôi
vần vũ theo đội h́nh
để chờ cơ hội được đáp
xuống nhằm giải tỏa khối hàng hóa binh sĩ và
vũ khí. Cứ vài phút họ thấy một chiếc C-130
cất cánh thẳng từ phi đạo để
chiếc khác có thể đáp xuống. Những chiếc bay
lên khi lấy được cao độ th́ vội vă
về hướng Nam để bốc thêm quân tăng
viện TQLC và QLVNCH.
Khi
họ đến phi đạo, Gerry ra hiệu cho viên tài
xế lái đến thật sát chiếc C-130 đang
dẫn đầu trên phi đạo phía Bắc. Lính TQLC cùng
với khí cụ mới vừa được tải
xuống xong. Turley đến gần đầu con chim
sắt với động cơ c̣n nổ tuy chưa
hết công suất để cất cánh. Anh cầm sẵn
vũ khí và đồ trang bị cá nhân. Có hai hay ba chiếc
C-130 khác đàng sau chiếc dẫn đầu này c̣n đang
bận đổ quân và hàng hóa xuống. Gerry đưa ngón tay cái lên, giống như một đứa
trẻ xin quá giang trên các con đường lộ hay
đường cao tốc bên Mỹ, hay có lẽ giống
như một gă vô gia cư bộ tịch thiểu năo và
bộ râu bốn ngày chưa cạo nhiều hơn. Anh là
người Mỹ duy nhất tại đây thành thử
dĩ nhiên là tay phi công hay phi công phụ
ra hiệu cho anh lên ngay.
Ngoài
phi hành đoàn C-130, Gerry là hành khách duy nhất trên chuyến
bay hai tiếng đồng hồ về Tân Sơn Nhứt.
Trưởng phi hành đoàn chẳng buồn kiểm tra
khẩu súng mà tay Trung tá TQLC Hoa Kỳ với bộ dạng
dữ dằn này đang mang theo mặc dù băng
đạn đă được lắp sẵn và có một
viên đạn nạp trong ṇng. Đây là một sự vi phạm nghiêm trọng về an toàn. Lần
trước lên mạn Bắc, Turley chẳng mang ǵ hơn
là cái ba-lô nhỏ và khẩu súng. Mặc dù chỉ mang theo những thứ căn bản cần
thiết nhất, anh c̣n đóng vai tṛ một gă đưa
thư, một nhiệm vụ mà anh đă hoàn tất. Món
hàng duy nhất chưa giao được là một chai
cô-nhắc cho Đại úy Ray Smith mà anh không thể gặp
được. Gerry quên khuấy là anh vẫn c̣n đang
giữ chai rượu này của Smith.
Gerry
chưa bao giờ uống rượu mạnh. Anh chẳng
kiêng rượu và thỉnh thoảng cũng uống
một hay hai chai bia tại câu lạc
bộ sĩ quan, hoặc nhâm nhi một ly rượu vang
khi anh và Bunny đi ăn tối ở ngoài. Do đó anh
rất ngạc nhiên khi thấy chai rượu của Ray Smith
vẫn c̣n đó. Không biết có bao giờ gặp lại Ray
hay không, anh mở bao giấy ra, vặn nút chai và chào mời
những người bạn Không lực mới quen mỗi
người làm một tợp. Họ đều lịch
sự từ chối. Anh bèn uống một ngụm. Xong,
anh vặn nút và bỏ vào ba-lô lại. Anh duỗi chân trên
chiếc lưới bằng ni-lông làm chỗ ngồi
dọc theo vách ngăn mạn phải
của con tàu và nhanh chóng thả hồn vào giấc mộng.
Anh ngủ một mạch cho đến khi trưởng phi
hành đoàn nhẹ nhàng đánh thức anh dậy khi máy bay
tắc-xi và đậu lại trên đường băng
Tân Sơn Nhứt.