NGHIÊN CỨU THỜI TIẾT GIÓ MÙA
CHUẨN BỊ CHUYẾN VƯỢT BIỂN
Chiếc tàu vượt biển Kiên Giang 0783 dự trù ra
đi từ nhiều tháng trước vào cuối năm
1978, nhưng không hiểu v́ lư do ǵ đă bị đ́nh hoăn lại
đôi ba lần, một phần có thể v́ vấn đề
an ninh. Chuyến vượt biển của chúng tôi đă
quy tụ được một số đồng nghiệp
Giáo sư, bác sĩ và sinh viên y khoa sắp ra trường. Chánh
quyền CS Trung ương cho phổ biến lệnh lùng bắt
xuống đến các địa phương ở những
vùng ven biển.
Nhóm anh em Y Khoa được xem như Ban tham mưu, ṇng cốt
cho chuyến vượt biển này vậy. Biết nhau từ
trước, ngay từ lúc đầu xuống Tác Ráng, anh em
chúng tôi đă sát cánh bên nhau, chia xẻ, giúp đỡ,
đóng góp tinh thần, kiến thức cho cuộc hành tŕnh
dự liệu sẽ gặp nhiều gian truân, nguy hiểm.
Sợ bị phát giác ở chỗ đông người, anh
em thường tụm năm, tụm ba trong khu vườn
sau chùa, có nhiều đường mương nhỏ ngang
dọc, ngồi quanh những gốc dừa xiêm, xúm xít
dưới những lùm cây rậm rạp để trao
đổi tin tức, thảo luận về một số
vấn đề liên quan đến vượt biển
như thời tiết, gió mùa, hải tặc, v. v…
Tàu không đi vào cuối năm trước, âu cũng là cái
may v́ từ tháng mười một trở đi, gió mùa
Đông Bắc thổi vào miền Nam Việt Nam và bán đảo
Mă Lai thường lên đến 50-70 cây số một giờ,
đủ làm cho biển chuyển động mạnh, trở
thành nguy hiểm đối với những ghe tàu loại
nhỏ. Bắt đầu tháng 12 được xem là mùa biển
động. Sức gió thổi mạnh có khi lên đến
120-130 cây số giờ. Từ tháng ba, gió mùa Đông Bắc
yếu dần, nhưng có thể đột ngột trở
lại vào tháng sáu, từ hướng Tây Nam, kéo dài cho đến
tháng chín. Lúc đó thuyền nhân thường phải
đương đầu với những cơn sóng lớn,
gió mạnh như băo tố, kèm theo những
cơn dông, mưa rơi như trút… nếu được
ra khơi trong tháng tư là lư tưởng nhất; biển
tương đối êm; gió có thể thay đổi,
nhưng sức gió không quá mạnh.
Rạch Giá nằm trên bờ biển phía Tây Nam Việt Nam. Từ
Rạch Giá cuộc hành tŕnh khởi đầu theo hướng Tây. Khi ra đến Hải
phận quốc tế, có thể đi thẳng qua Thái Lan,
hoặc đổi hướng về Mă Lai Á, Tân Gia Ba, Nam
Dương.
Ngoài thời tiết, gió mùa, chúng tôi c̣n lo ngại đến
vấn đề hải tặc. Theo sử học, cướp
biển xuất hiện từ khi đường biển
được dùng trong việc buôn bán, vận chuyển
hàng hóa. Kể từ thế kỷ thứ 13 trước
công nguyên, đă có những vụ cướp biển trên
Địa trung hải và các vùng biển lân cận. Nạn
nhân chẳng những là thường dân mà c̣n có cả những
người tai mắt, có quyền thế.
Người ta nói đến Đại đế Julius Cesar
của La mă. Trong một chuyến du hành trên biển Agean,
Đại Đế Julius Cesar bị cướp biển
Cilician bắt và giam giữ trên một ḥn đảo hoang,
sau đó cho chuộc lại với một số tiền lớn.
Sau khi trả tiền và được tự do, Đại
đế Cesar liền tổ chức một hạm đội
riêng, ra tay truy lùng và tiêu diệt trọn
nhóm cướp đă bắt ông.
Hải tặc được chia thành nhiều hạng:
Có những hải tặc tầm vóc tầm thường,
nhưng cũng có những hải tặc trứ danh như
cướp biển Vikings trong thời Trung cổ Âu Châu
đến thế kỷ thứ 19. Nhóm cướp biển
này gồm toàn những chiến sĩ gan dạ và du đảng
của xứ Đan Mạch. Vikings tung hoành dọc bờ
biển và sông ng̣i trên toàn lănh thổ phía Tây Âu Châu, tấn công
cả miền duyên hải Phi Châu và Ư Đại Lợi, lên
đến tận Hắc hải.
Cùng lúc cũng có nạn cướp biển gốc Hồi
giáo nổi lên ngang dọc trong vùng Địa trung hải. Cướp
có sào huyệt thiết lập dọc bờ biển phía Nam
nước Pháp và phía Bắc nước Ư Đại lợi,
tấn công, cướp phá cả thánh địa Roma và
Vatican.
Vào thời kỳ đó trên thế giới, nạn cướp
biển tràn ngập khắp nơi, từ miền Đông
Âu Châu, sang miền Bắc Phi Châu, trong vùng biển Á rập,
Ấn Độ dương, trong vùng biển Caribbean thuộc
Đại Tây dương.
C̣n trong vùng Đông Á, cướp biển Wokou có căn cứ
đặt trên đất Phù tang từ thế kỷ thứ
13, đă dọc ngang xâm lược trong một thời gian
dài trên 300 năm nhắm vào các lân quốc Đại hàn,
Trung hoa. Tuy nhiên đáng kể nhất là cướp biển
Trung hoa, càng ngày càng bành trướng, lớn mạnh trong suốt
đầu thế kỷ thứ 19. Tổ chức cướp
biển này với số đảng viên trên 10.000 người,
đă làm bá chủ trên khắp các làng mạc ven bờ biển
nước Tàu Fujin, Quảng Đông, và gần đây
được một ảnh hưởng mạnh mẽ
trên nền kinh tế nước Tàu. Tổ chức này tạo
ra được nhiều phương cách để làm tiền
dân chúng, nhờ vậy đă thu nhập
được một mối lợi khổng lồ đều
đặn hàng năm.
Ngoài ra c̣n có nhóm cướp biển trong vùng Nam Sulawesi thuộc
Nam dương kiểm soát tàu buôn qua lại vùng biển nằm
dọc phía Tây Tân Gia Ba, lên đến phía Bắc Phi Luật
Tân. Chẳng những cướp kiểm soát tàu bè đi lại
trên đường Tân Gia Ba-Hồng Kong, mà chúng c̣n kiểm
soát cả eo biển Malac nối liền
Ấn Độ dương với biển Đông, kiểm
soát vùng biển quanh Tân Gia Ba và bán đảo Mă Lai.
Vịnh Thái Lan cũng là nơi nổi tiếng về hải
tặc từ 100 năm qua. Có nhiều sào huyệt của hải
tặc nằm rải rác trên các ḥn đảo hoang vu. Cướp
hung dữ, tấn công ngay cả tàu buôn lớn qua lại
trong vùng. Đặc biệt, kể từ ngày có làn sóng
người Việt Nam trốn Cộng Sản, ồ ạt
bỏ nước ra đi bằng đường biển,
tin tức trên đài BBC-VOA về các vụ cướp biển
do tàu đánh cá Thái Lan được loan truyền nhanh
chóng, khiến vấn đề cướp biển trở
thành một mối lo ngại lớn cho thuyền nhân ra
đi trên những chiếc tàu bằng gỗ, vừa nhỏ,
ọp ẹp lại chở quá đông người. Nhất
là kể từ năm 1978, người Việt gốc Hoa
càng ngày càng bỏ nước ra đi đông đảo,
mang theo nhiều tài sản, ṿng vàng, nữ
trang quí giá, đô la Mỹ. Đă có trường hợp
người Hoa đến Mă Lai với một số kim
cương trị giá hơn một triệu Mỹ kim, giấu
trong thùng dầu. Một người Hoa khác vừa đặt
chân lên đất liền Mă Lai, đă yêu cầu chính quyền
địa phương cất dùm một số lượng
vàng, hiện kim trị giá hơn nửa triệu đô la Mỹ.
Có thể những tin tức đầy hấp dẫn này
được loan đi, đă thúc đẩy những
ngư phủ Thái Lan, dù nguyên thuỷ không phải là cướp
biển, nhưng cũng trở nên thèm thuồng, t́m cách
săn đuổi những con mồi béo bở, thay v́ lo việc
đánh cá làm ăn lương thiện. Cướp biển
có tổ chức, hành động từng nhóm 4-5 chiếc,
dùng hệ thống điện đài liên lạc với
nhau. Trong những năm 1976-77, hải tặc c̣n
nương tay, sau khi cướp bóc xong, có khi c̣n cho lại
thực phẩm, nước uống, dầu nhớt, chỉ
đường, chỉ hướng cho đi. Nhưng qua
đến năm 1978-79, cướp biển tỏ vẻ
hung hăn hơn. Nhiều phúc tŕnh của Hoa Kỳ về tị
nạn ghi chú trong hồ sơ vượt biển với những
danh từ “RPM” (hăm hiếp, cướp bóc và giết chóc).
Có tàu hải tặc có súng, nhưng phần lớn chúng chỉ
dùng người để la hét, trương cờ xí vẽ
h́nh đầu lâu đen với hai xương ống quyển
tréo nhau, dùng vũ khí thô sơ như búa ŕu, dao găm, mă tấu,
dùi cui, thanh sắt, chỉa ba, v. v… để áp đảo
tinh thần thuyền nhân vượt biển, xong đồng
loạt nhảy sang tàu uy hiếp, cướp bóc, hăm hiếp
… Thấy việc làm ăn có vẻ dễ dàng, tàu cướp
thay v́ đánh cá gần bờ, đă tràn ra hải phận
Quốc tế để “giăng tơ”, lẩn quẩn
giữa vùng châu thổ sông Mekong Việt Nam và dọc theo bờ
biển phía Nam vịnh Thái Lan và miền Đông Bắc Mă
Lai.
Trong thời gian hiện tại, cướp biển với
những trang bị tối tân đă tỏ ra xem thường
những quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Từ
trước đến giờ chưa có một đạo
luật hàng hải Quốc tế nào dùng để trừng
trị Hải tặc, nên cướp biển vẫn ung
dung hoạt động ngoài ṿng pháp luật và nạn cướp
biển càng ngày càng bành trướng …
Riêng tại biển Đông, vượt biển trong thời
điểm này thật là cam go, trắc trở, v́ chính quyền
Cộng sản ra lệnh kiểm soát chặt chẽ các
vùng biển miền duyên hải từ miền Trung đến
miền Tây Nam bộ. Tuy nhiên cũng nhờ sự tham
nhũng có hệ thống của Công an
các cấp, mà dân chúng vẫn có thể tổ chức nhiều
chuyến vượt biển trước mắt chính quyền
địa phương. Người dân miền Nam, v́ ḷng
mong muốn thoát khỏi sự kềm kẹp của CS với
bất cứ giá nào để đi t́m Tự do nên hầu
hết đều cương quyết, bất chấp mọi
gian truân, nguy hiểm để ra đi. Nhưng có đến
được miền đất hứa an
toàn hay không lại là một chuyện khác. Có tàu vượt
biển Đông để sang Phi, bị băo tố lạc
đường giữa sa mạc nước
mênh mông, hết lương thực, người trên tàu chết
lần hồi, đói quá, bắt buộc phải ăn thịt
đứa con của người chủ tàu vừa chết
v́ thiếu sữa, để sinh tồn. Sau đó rủi
ro lại gặp tàu vận tải Liên Xô dẫn độ
trở về đất liền giao lại cho chính quyền
CS.
Có tàu vượt biển gặp thời tiết xấu,
sóng to băo táp lật ch́m. Có tàu giữa đường gặp
hải tặc tấn công, cướp bóc đánh đập
rồi quăng xuống biển. Có tàu đến được
đất liền lại bị kéo ra khơi trở lại.
Theo thống kê của Cao ủy Tỵ nạn LHQ năm
79-80, có trên một triệu người bất măn chế
độ Cộng Sản đă bỏ nước ra đi,
nhưng hơn phân nửa đă bỏ ḿnh trên biển cả
…
Ra đi không có vũ khí, súng ống, chúng tôi chỉ biết
chọn lựa những thanh niên khỏe mạnh, gan dạ,
t́nh nguyện thành lập một đội ngũ pḥng vệ,
chế tạo nhiều chai xăng Molotov(*) và cầu khẩn
Ơn Trên cho chuyến vượt biển được
thuận buồm xuôi gió …
(*) Chai xăng Molotov là những chai xá xị không, chứa
đầy xăng đậy lại thật kín, có tḥng dây
bùi nhùi để pḥng khi gặp tàu địch xáp lại gần
sẽ đốt bùi nhùi và quăng xăng. Chai xị bể
ra, xăng bốc cháy gây ra hỏa hoạn làm địch
kinh hoàng, tránh đi nơi khác.
GIỜ KHỞI HÀNH
Chạng vạng tối ngày 15 tháng 4 năm 1979, chúng tôi
được lần lượt kêu tên, theo danh sách có sẵn
để xuống tàu KG 0783 cập gần sát bờ sông Tác
Ráng.
Không hiểu v́ lư do ǵ, có nhiều người bị gạt
bỏ tên ra (?). Anh Bác sĩ Nguyễn Xuân Th́n được
cho lên tàu với người con trai lớn trong khi vợ và
ba đứa con trai khác c̣n nhỏ vẫn đứng trên bờ,
chờ đợi, rồi không được đi (!), chỉ
có cách nhau vài thước mà măi đến hơn mười
năm sau, khi anh đi học trở lại ở California,
ra trường Bác sĩ Y Khoa, sắp đổi về làm
việc trên Washington State, anh mới bảo lănh được
cho cả gia đ́nh qua sum họp. Bác sĩ Dương Hồng
Mô trượt chân suưt té xuống sông là người áp chót
bước lên. Cuối cùng là anh Nguyễn Quang Hoàng, thợ
máy phụ. Tấm ván cầu được rút lên, tàu từ
từ rời bến.
Từ khi xuống tàu, để tránh sự chú ư của Công
an, tôi trốn dưới hầm máy, giấu mặt. Đợi
đến khi tàu ra giữa sông, tôi mới an tâm chui lên khỏi
hầm, men theo hông tàu đứng ngoài
pḥng chỉ huy, theo dơi cuộc hành tŕnh.
Trời chiều vùng Rạch Giá, gió mát, mặt sông phẳng
lặng. Ông Thuyền trưởng, mặc áo thun xanh đậm
loại thể thao, bệ vệ ngồi trước tấm
chắn gió, ra lệnh cho ông tài công bằng tiếng Anh:
“Follow me”!
Một chiếc ghe nhỏ c̣n cố chạy bám theo, cặp bên trái tàu chúng tôi, đổ thêm một
số đông người lên tàu. H́nh như đó là những
người của cơ quan Công an địa
phương tổ chức, để lấy tiền riêng…
Tàu chạy qua một đồn canh, sát bờ bên phải. Một
ánh đèn bấm yếu ớt trong đồn phớt qua,
làm cho có lệ. Trong đêm tối, tàu tiếp tục len lỏi
trên sông, đôi lúc suưt cuốn đi những dàn lưới
cá …
MẮC CẠN
Bỗng nhiên mọi người nghe một tiếng cọ
sát mạnh dưới lườn tàu. Sau đó tàu ngừng
hẳn lại, hơi chao về bên phải. Tàu đă chồm
lên một băi cát ngầm gần cửa biển. Ông tài công
la to: tàu bị mắc cạn!
Ngày đầu, mới xuống Rạch Giá, tôi có tham dự
một buổi họp kín trong một căn pḥng hẹp
trên lầu nhà trọ. Ánh sáng mặt trời chiều rọi
vào vừa đủ, qua cánh cửa sổ nhỏ. Khi anh bác
sĩ Mă Xái dẫn tôi đến nơi đă có ba người
đang ngồi chồm hỗm dưới đất,
chăm chú quanh một bản đồ chỉ to bằng
bàn cờ tướng bằng giấy. Tôi nhận ra ông chủ
tàu Lư Đông với gương mặt phúc hậu, ông thiếu
úy Hải quân Đoàn Minh ít nói, hiền lành, nho nhă. Người
thứ ba tôi chưa được biết là một
người đàn ông trung niên ngoài 40 tuổi, dáng người
trí thức, trắng trẻo, phương phi. Tôi vừa
đến, chưa kịp ngồi xuống th́ người
này tự xưng là thuyền trưởng, đă tuôn ra một
tràng tiếng Anh, rồi tiếng Pháp đúng giọng
người dân ở thành phố Paris để nói với
tôi. Tôi thoái thác, xin nói tiếng Việt. Ông đổi giọng,
nói lơ lớ như người ngoại quốc mới
tập nói tiếng Việt:
“Anh nh́n bản đồ tôi vẽ có được hay
không?”.
Khi tôi c̣n ở Sài G̣n, có một lần ông chủ tàu
đến thăm tôi, cùng đi với ông Đoàn Minh. Tôi
đă được thấy bản đồ bèo nhèo này với
đường vẽ bằng mực đậm từ cửa
sông Rạch Giá 270 độ ra đến Hải phận Quốc
tế, đổi hướng 185 độ về Mă Lai …
Nay lại nghe ông này cho biết bản đồ do chính tay ông vẽ. Ông c̣n nói tiếp: “Tôi là Thuyền
trưởng Âu Châu, nên không biết rơ vùng biển Á Châu này,
chỗ nào cạn, chỗ nào sâu? C̣n trên sông, từ đây ra
biển, th́ tôi thật là rành rẽ”.
Những lời phát biểu có vẻ như chuyên nghiệp
về hàng hải của ông Thuyền trường này hoàn
toàn mâu thuẫn. Bởi v́, ngoài biển cả mênh mông, ở
bất cứ nơi nào trên thế giới, người thủy
thủ từng trải trong nghề có thể dùng kính Lục
Phân (Sextant) để đo độ cao của mặt trời
ban ngày, của các v́ tinh tú ban đêm, để từ đó
dựa vào sách hàng hải làm một bài toán nhỏ tính ra vị
trí con tàu ḿnh đang đi trên mặt biển. Nếu chạy
theo ven bờ, người thuỷ thủ
chỉ cần ráp nối bản đồ của vùng ḿnh
đang đi. Bản đồ được cơ quan Hải
Dương Học Quốc Tế nghiên cứu rất công phu.
Mỗi bản đồ đều có kẻ những
đường lằn dọc theo bờ
biển, cho biết rơ độ sâu. Ngoài ra, có thể dùng những
thiết bị như Sóng âm phản xạ (Sonar) để
định rơ độ sâu của biển một cách chính
xác hơn. C̣n tàu lớn ngoài biển cả muốn vô sông
th́ bắt buộc phải nhờ đến Hoa tiêu địa
phương hướng dẫn, mới biết được
t́nh trạng thường xuyên biến đổi của
sông ng̣i, chỗ nào cạn, chỗ nào sâu, bên nào lở, bên
nào bồi, ḷng cát di chuyển mỗi ngày ra sao.
Tôi đâm ra nghi ngờ khả năng của ông Thuyền
Trưởng này. Nghi ngờ nhưng v́ đă đổi tên
đổi họ, nên tôi không tranh luận. Giờ đây việc
tàu bị mắc cạn xảy ra làm tôi ân
hận. Đến lúc này, Bác sĩ Mă Xái và ông Lư Đông kịp
thời nhận thấy t́nh trạng không an
toàn của tàu và khả năng của ông Thuyền trưởng.
Ban tham mưu quyết định yêu cầu tôi tích cực
tham gia điều khiển con tàu:
“Đây là quyền lợi sống c̣n của cả tập
thể, của hàng trăm sanh mạng, xin anh đảm
đương trách nhiệm làm thuyền trưởng cho”
TIẾP TỤC LÊN ĐƯỜNG
Tàu bị mắc cạn đêm đó cho đến suốt
cả ngày hôm sau.
Thỉnh thoảng có vài chiếc tàu gỗ chở hàng từ
Phú Quốc chạy về, tài công quen đường nên lái
tàu chở nặng vô cửa biển dễ dàng, cách tàu chúng
tôi chừng 50 thước về bên trái.
Một chiếc tàu tuần của An ninh
Biên pḥng VC ập đến. Anh Công an
đứng trước mũi tàu im lặng ch́a ra một
cái nón lá trống trơn. Người trên tàu hiểu ư, chuyền
tiếp ra phía sau lái. Một lúc sau, cái nón lá trở lại
tay anh Công an, đầy ấp những tờ giấy bạc
“nhiệm mầu!”. Thế là xong. Đợi
đến chiều, nước thuỷ triều lên cao. Chiếc
tàu mắc cạn được ba chiếc tàu Công an trở lại kéo ra.
Trời xẩm tối. Đến giờ xuất phát. Bốn
chiếc tàu gỗ đen ng̣m không quen biết nhau, nhưng
cùng chung một chí hướng, ào ạt
ra khơi, như một đội chiến hạm thời
thế chiến.
Ánh sao đêm ló dạng. Biển êm. Sóng vỗ đều
đều vào mạn tàu, làm tung lên những
bọt nước trắng xoá. Gió nồm nhè nhẹ thổi
làm tâm hồn mỗi người lâng lâng, khoan khoái, nhất
là sau một thời gian dài khắc khoải chờ mong
đi t́m Tự Do, bỏ lại đàng sau những tháng
năm khổ sở trong ngục tù Cộng Sản, cuộc
sống bị đe dọa triền miên trong khó khăn
đói kém, làm mất hẳn niềm tin vào tương lai.
Tàu đang chạy thong thả th́ chúng tôi chợt thấy một
chiếc tàu sắt lớn nhô lên ở chân trời, tuy khoảng
cách c̣n xa, nhưng bị ám ảnh bởi sự xuất hiện
thường xuyên của tàu Liên Xô đă nhiều lần kéo
tàu vượt biên từ ngoài khơi trở vô bờ, giao lại
cho Công an Cộng Sản như chiếc tàu gỗ CR 0067 PK
khởi hành từ Cam Ranh cách đây chưa đầy 6
tháng, nên chúng tôi liền đổi hướng chạy
ngược chiều một đỗi để tránh xa rồi
mới trở lại tiếp tục con đường
đă hoạch định.
Qua được một ngày b́nh an.
Khi biết chắc là vô được hải phận Quốc
tế, chúng tôi mới dám thở phào, vui mừng v́ đă
tránh được sự theo đuổi
của Công an biên pḥng Cộng Sản, nhưng bây giờ lại
thêm mối lo sợ nạn cướp biển tấn công…