BBT: Dưới
đây là bản dịch của VietSoul:21
cho một bài luận mang tính tổng hợp mới
đây mang tựa đề The wrong side won của
Tiến Sĩ người Đức Uwe Siemon-Netto.
Đây cũng là
bài dịch thứ ba của chúng tôi trong loạt bài viết
liên quan đến một cựu phóng viên quốc tế
người Đức đă tường thuật nhiều
sự kiện lớn trên thế giới trong ṿng 57 năm
chẳng hạn như việc xây dựng và sự sụp
đổ của bức tường Berlin, cuộc
chiến 6 ngày giữa Ả Rập và Do Thái, cuộc Cách
Mạng Văn Hóa tại Trung Cộng, và vụ ám sát
Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy.
Ông Siemon-Netto nguyên
là tổng biên tập về tôn giáo của United Press
International, hiện là b́nh luận gia quốc tế và
một nhà thần học (không phong chức) của
đạo Lutheran. Ông là sáng lập viên của Center for
Lutheran Theology and Public Life (CLTPL) và chủ tịch của
tổ chức “The League of Faithful Masks” đặt bản doanh
tại Capistrano Beach và trường Concordia University Irvine,
California.
Với tư cách
một nhà báo, ông chuyên về những đề tài liên quan
đến niềm tin, xă hội và ngoại giao. Ông hiện
là cộng tác viên thường trực của tờ “The
Atlantic Times,” một tờ báo tiếng Anh hàng đầu
của giới báo chí Đức tại Mỹ.
Mối quan hệ
của ông Siemon-Netto đối với Việt Nam rất
mật thiết. Trong khoảng thời gian năm năm
(từ năm 1965 cho đến năm 1969 và sau đó
một lần nữa vào năm 1972) với tư cách phóng
viên chiến trường tại Việt Nam, ông đă
chứng kiến tội ác Việt Cộng tại Huế
kỳ Mậu Thân 1968, trong đó một số người
quen của ông là 3 bác sĩ người Đức cùng với
vợ của một người đang làm việc
thiện nguyện tại trường Y Khoa Huế đă
bị thảm sát. Ông c̣n là nhân chứng của một
số xung đột khủng khiếp, đặc biệt
là trận chiến đẫm máu tại thung lũng “Ia
Drang” trong năm 1965.
Sau hai bản dịch cho các điểm sách của Michael Potemra và Joseph Reitz, chúng tôi chọn dịch
tiếp bài thứ ba là bài viết
của chính tác giả vào cuối năm vừa rồi trên
tạp chí The American Legion–một tạp chí chuyên
về các đề tài liên hệ đến các cựu
chiến binh Hoa Kỳ.
Trong bài viết này
ông đă dùng ng̣i bút qua kinh nghiệm xương máu tại
chiến trường Việt Nam để mô tả
tội ác khủng khiếp của Cộng sản. Ngoài các
chuyện kể cảm động từ các nhân chứng
đă sống trong những giây phút cuối cùng của tháng
4 năm 1975, ông kể lại cảm xúc của ḿnh
đối với thành phần sinh viên và trí thức cánh
tả với rừng cờ Mặt Trận GPMNVN khi
đang sống tại Paris trong cùng khoảng thời gian
đó.
Ông cũng không quên
phê phán thái độ không trung thực của giới
truyền thông Hoa Kỳ vào thời kỳ chiến tranh
ấy. Ông c̣n dùng dẫn chứng để bạch hóa chuyện
phương Tây không có các phương tiện tâm lư và chính
trị để chống lại một cuộc chiến
tranh kéo dài.
Đọc bài
viết này chúng ta có thể thấy được tại
sao sau hơn nửa thế kỹ mà tác giả vẫn không
thể quên vô số nạn nhân vô tội do Cộng sản
gây ra trước và sau khi có cuộc cưỡng chiếm
miền Nam Việt Nam bắt đầu từ năm 1975.
Đây là bài viết dựa vào quyển hồi kư mới
của nhà thần học này mang tựa đề Đức:
A reporter’s love for a wounded people xuất bản vào
năm ngoái 2013.
Ngay đầu
cuốn hồi kư ông đă viết những chuỗi ḍng
thương nhớ tưởng niệm sau đây:
Tưởng
niệm
Cuốn sách này
được viết nhằm tưởng nhớ vô
số các nạn nhân vô tội trong cuộc xâm chiếm
Miền Nam Việt Nam bởi Cộng sản, đặc
biệt là:
– Hàng trăm ngàn
đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị tàn sát trong các
làng mạc và thành phố, nhất là tại Huế;
– Hàng trăm ngàn
chiến sĩ và công cán chính VNCH đă bị hành quyết,
tra tấn hoặc bỏ tù sau khi chiến tranh kết thúc;
– Hàng triệu
người đă bị xua đuổi ra khỏi quê
hương và hàng trăm ngàn người đă bị
chết đuối trong quá tŕnh đi t́m tự do;
– Các chiến
sĩ VNCH đă anh dũng chiến đấu khi đă
mất tất cả và các tướng lănh oai hùng đă
quyên sinh vào những giờ phút cuối cùng;
– Các thanh niên
miền Nam và Bắc Việt Nam động viên vào quân
ngũ đă bỏ mạng trong cái gọi là “chiến tranh
giải phóng” nhưng đă không mang lại tự do cho ai;
– 58.272 binh lính Hoa
Kỳ, 4.407 Đại Hàn, 487 Úc; 351 Thái và 37 Tân Tây Lan đă
hy sinh tại Việt Nam ;
– Các đồng
hương người Đức của tôi, trong đó có
BS Horst-Günther và Elisabetha Krainick, BS Alois Alteköster, BS Raimund Discher,
GS Otto Söllner, Bá Tước Hasso Rüdt von Collenberg và nhiều
người khác đă đến như những
người bạn và phải trả giá bằng mạng
sống của họ.
Trong tư cách
một phóng viên và nhân chứng lịch sử, tác giả sau
đó đưa ra các dữ kiện t́nh tiết liên quan
đến nạn nhân của một cuộc chiến mà bên
sai trái đă thắng và chia xẻ nhiều kỹ niệm
khó quên trong suốt hồi kư của ḿnh.
Qua các phân tích và
chứng minh chiến thắng của Cộng sản
Việt Nam đặt trên căn bản của tội ác,
ông không chấp nhận chiến thắng đó là một cuộc
giải phóng. Ông đàm luận rằng phe sai trái đă
thắng nhờ vào khủng bố, tàn sát và phản
trắc.
Hồi kư của ông đă
được ra mắt tại quận Cam tại California
vào dịp Quốc Hận năm ngoái với hai phiên bản
tiếng Anh và tiếng Việt. Phiên bản tiếng
Việt là Đức: T́nh yêu của một phóng
viên dành cho một dân tộc nhiều đau
thương được hai biên tập viên
của Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
dịch. Hai cựu sinh viên quân y này là Nha sĩ Lư văn Quư
tại Little Saigon/Quận Cam và Dược Sĩ Nguyễn
Hiền tại Ḥa Lan đă “dịch
vừa sát nghĩa vừa đượm hồn Việt”.
Quư vị có thể tham khảo video và bài nói chuyện của tác giả (hay bản dịch tiếng Việt)
trong dịp sinh hoạt này của Diễn Đàn Cựu
Sinh Viên Quân Y với sự hỗ trợ của tổ
chức Câu Lạc Bộ T́nh Nghệ Sĩ và Tù Ca Xuân
Điềm.
Phiên bản
tiếng Đức đă xuất hiện và bản
tiếng Anh vừa tái xuất bản vào năm nay với
nhiều bổ túc và sửa chửa. Điều bắt
mắt là tít cho b́a tiếng Đức, “Mein Vietnam. Warum die
Falschen siegten”–tạm phỏng dịch “Việt Nam của
tôi: Tại sao bọn Sai Trái lại chiến thắng?”. Ngược lại trong lần tái bản
tiếng Anh này th́ ông đă cho đặt thêm cụm từ
“Chiến Thắng của sự Phi Lư” (Triump of the Absurd) lên
tựa đề ngoài b́a sách và xử dụng thuật
ngữ “bị bỏ rơi” thay v́ “nhiều đau
thương” khi nói đến dân tộc Việt Nam.
Một số chương mẫu
(Preface, Chapter 1-“Comme la mer, comme le ciel”, and Epilogue) trong nguyên
bản tiếng Anh có thể t́m thấy trên trang nhà của tác giả. Quư
bạn cũng có thể t́m đọc các chương
mẫu bằng Việt Ngữ tại các trang mạng
nối sau đây:
Chương 1: Như biển cả,
như bầu trời
Chương 15: Tết Mậu Thân: Hỏa
ngục Huế
Đoạn kết: Hậu quả của
khủng bố và hiệu lực của hy vọng
Nhân dịp 30 tháng 4 năm nay ông
sẽ đi một ṿng Châu Âu để ra mắt
sách. Nhưng trước tiên ông Siemon-Netto sẽ ra
mắt hồi kư bằng Đức ngữ của ḿnh
tại Hội Chợ Sách được tổ chức
ngay tại nơi ông đă sinh trưởng—thành phố
Leipzig (Đông Đức cũ). Quư vị có thể mua sách
tại Amazon hay trang nhà của tác giả, https://www.siemon-netto.org hoặc
viết thư liên lạc với tác
giả tại siemon-netto@siemon-netto.org hay quyvanly@aol.com
Đại ư của quyển hồi
kư (Nhà xuất Bản CreateSpace):
Gần nửa
thế kỷ trước, một phóng viên trẻ từ
Đức đến một Sài G̣n vẫn rất quyến
rũ để tường thuật
về chiến tranh Việt Nam trong khoảng thời gian
năm năm. Trong cuốn hồi kư này ông kể chuyện
về việc làm thế nào ông đă phải ḷng
người Việt Nam. Ông ca ngợi vẻ đẹp,
sang trọng và ḷng can đảm của phụ nữ. Ông
mô tả tội ác khủng khiếp của Cộng sản
và những cảnh chiến đấu ác liệt mà ông
đă chứng kiến. Ông giới thiệu nhiều
loại nhân vật như những anh hùng, tiểu tốt,
các chính khách và t́nh báo, những kẻ lập dị hài
hước, những em trẻ giang hồ và mồ côi
chăn trâu. Ông cho thấy những sơ suất
của chuyên nghiệp truyền thông Mỹ chẳng
hạn như làm thế nào “ngôi sao truyền thông” Walter
Cronkite đă biến chiến thắng quân sự của
quân đội Mỹ và miền Nam Việt Nam trong Tết
Mậu Thân 1968 thành một thất bại về chính
trị. Ông thương tiếc vô số nạn nhân vô
tội do Cộng sản trong cuộc cưỡng chiếm
miền Nam Việt Nam—một kết quả tồi tệ
do bị bỏ rơi bởi Hoa Kỳ. V́ thế ông
lập luận là bên sai đă thắng. Cuối cùng,
hướng về Afghanistan ông đặt ra một câu
hỏi đau ḷng: Những xă hội dân chủ với
khuynh hướng đặc quyền tự măn trong hai
phương diện chính trị lẫn tâm lư thật có
đủ trang bị để thắng nổi một
cuộc chiến tranh kéo dài chống lại một kẻ
thù độc tài?
Phiên bản
tiếng Đức (2014)
Phiên bản
tiếng Anh lần đầu (2013)
Phiên bản
tiếng Anh lần thứ nh́ (2014)
Phía Sai Trái Đă
Thắng:
Hồi tưởng và suy tư
của một phóng viên chiến trường giờ thành
nhà thần học
Tạp chí American
Legion, 01 Tháng 12 2013, trang 21-22, 24, & 26
Một phụ
nữ miền Nam Việt Nam đau đớn thương
khóc trước xác của chồng ḿnh, một nạn nhân
cùng với 47 người khác bị vùi chôn trong một ngôi
mộ tập thể gần Huế. (H́nh: Corbis)
Vào lúc cao điểm trong chiến
tranh Việt Nam, Ralph White đă t́m cách đầu quân vào binh
chủng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ nhưng
bị từ chối v́ bị thương tật ở
mắt, trong lúc chơi quần vợt trước đó.
Thế mà khi cuộc chiến sắp đến hồi
kết thúc trong hỗn loạn vào tháng Tư năm 1975,
chàng White—người thanh niên 27 tuổi đang ở Sài
G̣n, đă hành động đúng với khẩu hiệu
“Luôn luôn trunh thành” (“Semper Fidelis”) của Thủy quân lục chiến[1] bằng
phương tiện dân sự.
Bằng đủ
mọi cách phỉnh hót, vặn vẹo, luồn lách và khôn
khéo vượt qua các rào cản hành chánh phiền toái, chàng
White đă mưu trí để giải cứu 112 công nhân
người Việt đang làm cho Ngân hàng Chase lúc ấy và
các thành viên gia đ́nh của họ: anh ta chỉ làm
chuyện đơn giản là nhận nuôi tất cả
họ trong chứng giám của một thẩm phán ḥa
giải Mỹ–người đang được
điều dụng khẩn tại Sân bay Tân Sơn Nhất
ở Sài G̣n. Khi đối diện với cuộc chiến
bại sắp tới cho đồng minh Nam Việt Nam
của Hoa Kỳ, anh thường dân Mỹ này-kẻ
từng muốn trở thành một binh lính thủy quân
lục chiến, đă đạt được một
chiến thắng tuy nhỏ nhưng rất đáng
để ư.
Bốn hôm sau
đó là ngày 30 tháng 4, cộng sản với đoàn xe
tăng T-54 do Liên Xô chế tạo đă hoàn tất cuộc
cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam khi cán sập
cổng dinh tổng thống tại Sài G̣n. Trong dinh tổng
thống, Dương Văn Minh (hay Minh Cồ),
người mới được bổ nhiệm Tổng
thống miền Nam Việt Nam, tuyên bố chuyển giao
quyền lực. Đại tá quân đội miền
Bắc Bùi Tín trả lời: “Không ai thắc mắc về
việc chuyển giao quyền lực của ông … Ông không
thể giao những ǵ ông không có.”
Đối với
một người Đức như tôi những lời
nói này nghe giông giống như các điều khoản
của Đồng Minh áp đặt lên đất
nước của tôi vào năm 1945 khi tôi c̣n là một
đứa trẻ: đầu hàng vô điều kiện.
Điều trớ trêu là trong khi vào cuối Thế
chiến II một chính phủ rơ ràng là ác đă buộc
phải đầu hàng theo kiểu này, th́ điều
ngược lại đă xảy ra 30 năm sau đó ở
Sài G̣n: một chế độ độc tài toàn trị
với bản chất cực kỳ vô nhân đạo
bắt nạt một đối thủ nhân đạo
hơn nhiều – dù có khiếm khuyết – và đă buộc
họ đầu hàng vô điều kiện, và thế
giới th́ lại vỗ tay.
V́ đă từng
làm phóng viên tường thuật về Việt Nam trong
khoảng thời gian năm năm cho nhà xuất bản
lớn nhất của Tây Đức, tôi kết luận
rằng phe sai trái đă thắng. Không có lư do ǵ để
vui mừng. Tuy nhiên, khi Tổng thống Gerald Ford tuyên
bố tại Đại học Tulane ở New
Orleans—khoảng một tuần trước khi miền Nam
Việt Nam cuối cùng bị nghiền nát–rằng chiến
tranh Việt Nam “đă kết thúc đối với
Hoa-kỳ,” th́ ông ta nhận được một sự
hoan nghênh nhiệt liệt.
Đúng ra th́
người ta không nên phản ứng nhiệt t́nh quá
thể như vậy trong khi số phận nghiệt ngă
của vô số người dân miền Nam Việt Nam
sắp bị giao vào tay địch.
Khổ nạn (Calvary) đối với họ chỉ
thực sự bắt đầu từ chiến thắng
của cộng sản. Theo Ủy ban Cao Ủy Liên Hợp
Quốc về người tị nạn, từ 200.000
đến 400.000 người bị chết ch́m trong khi
chạy trốn đất nước trên tàu đánh cá và
ghe bè tạm bợ. Khoảng 65.000 người đă
bị xử tử. Một triệu người bị
đẩy vào các trại tập trung, trong đó 165.000
người bị tra tấn hoặc bị bỏ đói
đến chết. Tờ National Review báo cáo là trong số
những người bị giết chết đó có 30.000
người nằm trong danh sách người làm việc cho
CIA c̣n để lại tại đại sứ quán.
Nếu so sánh theo
tỉ lệ th́ hành động của Ralph White
vượt trội so với chính phủ Hoa Kỳ: ông
đă giúp tất cả các nhân viên của ḿnh thoát ra đúng
như dự định khi ông t́nh nguyện bay từ
Bangkok sang Sài G̣n giữ trách nhiệm làm tổng giám
đốc lâm thời cho chi nhánh ngân hàng Chase tại
Việt Nam hai tuần trước khi Sài G̣n sụp
đổ. Trong báo cáo của ḿnh với ông xếp tại
Chase, sau này ông đă viết rằng “duy tŕ mối liên
lạc giữa ngân hàng Mỹ và đại sứ quán để
đảm bảo sự phối hợp tối ưu
với kế hoạch di tản” là “mục đích duy
nhất” trong trách nhiệm của ông.
“Đọc
lại hồ sơ đó của ḿnh làm cho tôi khá tự hào
về người đàn ông 27 tuổi lúc đó,” White – bây
giờ là một nhà văn ở Litchfield, Connecticut – cho biết.
Gần bốn
thập kỷ sau sự sụp đổ của miền
Nam Việt Nam, tôi được biết một câu
chuyện cảm động khác về một người
Mỹ cũng có hành động dân sự dũng cảm và
trung thành với những giá trị của ḿnh chẳng khác
ǵ người lính thiện nghệ. Patricia Palermo – một
cô tiếp viên hàng không tóc vàng của hăng Pan Am từ Nebraska
– là người t́nh nguyện phục vụ trên các
chuyến bay con thoi từ Guam đến Sài G̣n, chuyên
chở những chàng thanh niên “ma mới, non choẹt và
hăng hái” tới vùng tác chiến, khi cô hồi
tưởng lại trong một cuộc phỏng vấn
gần đây. “Khi tôi gặp lại họ, 12 tháng sau này th́
họ trông giống như những người đàn ông
50 tuổi. Nhiều người đă bị thương
và bị liệt, một số bị phê thuốc. Họ
không được phép lên máy bay cho đến khi tải
hết những ‘hồi binh’ khác được chất vào
khoang chở hàng – những người trong quan tài kẽm”.
Palermo, hiện
đang sống ở New York, trong một cuộc phỏng
vấn qua điện thoại tiết lộ rằng cô
bị chấn động lớn bởi những
chuyến bay ấy nên đă tự xóa nó khỏi tâm trí
của ḿnh cho đến năm 1980, khi cô thấy trên truyền
h́nh tường thuật trực tiếp cuộc diễu
hành đầu tiên tôn vinh các cựu chiến binh Việt
Nam. “Tôi lập tức ra khỏi nhà và chạy đến
đồng hành với họ”.
Phần ấn
tượng nhất trong sự nghiệp của cô đă
xảy ra trong những ngày cuối của cuộc
chiến, khi hăng Pan Am nhận ít nhất 2.000 trẻ sơ
sinh, chủ yếu là các con lai Mỹ được
bốc khỏi Sài G̣n để được nhận làm
con nuôi tại Hoa Kỳ. “Chúng tôi không được phép
rời khỏi máy bay v́ bom đạn của địch,
nhưng chúng tôi vẫn có thể thấy được
một số bà mẹ tuyệt vọng ném con cái của
họ qua hàng rào tại Tân Sơn Nhất và được
đưa vào máy bay an toàn bởi phi hành đoàn của chúng
tôi. Tôi nhớ một người nào đó đưa cho tôi
hai trẻ sơ sinh dấu trong một chiếc giỏ. Có
lần tôi đếm được hơn 400 trẻ
sơ sinh trên chiếc máy bay Boeing 747 này. Em bé ở khắp
mọi nơi, ngay cả trên kệ nơi để hành lư
phía trên chỗ ngồi, và chúng rất im lặng, hoàn toàn im
lặng…. “
Tôi đă thấy
sự sụp đổ của Sài G̣n trên đài truyền
h́nh trong căn pḥng của tôi ở Paris trong đau buồn
và tức giận dâng lấp. Tôi ngạc nhiên trước
hoạt động ngoạn mục của chương
tŕnh Operation Frequent Wind đă di tản được 1.373
người Mỹ cuối cùng, cộng với 5.595
Việt Nam và công dân các nước khác bằng các trực
thăng chủ yếu hạ cánh từ một bệ trên
đỉnh của văn pḥng tùy viên quân sự Hoa Kỳ
ở Đại sứ quán Mỹ ngày 29 và 30 tháng 4. Tôi
đă có mặt ở đó bảy năm về
trước trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu
Thân và theo dơi từ bên kia
đường khi cuộc tấn công của cộng
sản vào Đại sứ quán đă bị đánh
bại. Giờ họ sắp chiến thắng nên tôi
đau đớn.
Thật ra cái tức
giận của tôi là nhắm vào nhóm sinh viên và trí thức
đang cổ vơ cho chiến thắng của Việt
Cộng như thể là một cuộc giải phóng.
Họ cổ vơ ăn mừng ở khắp mọi nơi:
bên bờ tả ngạn sông Seine, ở Tây Đức trên
đất nước của tôi, và ở Hoa Kỳ. Tôi
cảm thấy muốn ói khi thấy một biển cờ
Việt Cộng màu đỏ và xanh tràn ngập trên
truyền h́nh, bởi v́ đối với tôi những màu
sắc đó tượng trưng cho các cuộc thảm sát
ghê tởm tôi đă chứng kiến tại Việt Nam.
Ví dụ, vào
một đêm ở Tây Nguyên tôi đă thấy nhiều xác
chết của một trưởng thôn, vợ và 12
đứa con của họ đă bị chém vụn
từng mảnh, tất cả đă bị tra tấn
bởi tay sai cộng sản. Dân làng nói với tôi là gia
đ́nh đă bị giết bởi v́ vị trưởng
thôn này đă trung thành với chính quyền Sài G̣n. Đó là
vào năm 1965. Năm 1967 – vào mùa bầu cử – Việt
Cộng đă khủng bố và giết ít nhất trên
100.000 thường dân để ngăn cản họ
đi bỏ phiếu.
Khi phát ngôn viên
người Pháp công bố rằng thể chế miền
Nam Việt Nam đă chấm dứt, tôi đă theo trực
giác với lấy cuốn sách tựa đề “Hai
Việt Nam” – quyển sách đă từng nằm trên bàn
cạnh giường ngủ của tôi tại khách sạn
Continental Palace ở Sài G̣n và theo cùng tôi đến Paris. Tôi
đă gặp tác giả của nó, Bernard B. Fall – một khoa
học chính trị gia người Pháp, nhiều lần
ở Sài G̣n và Washington trước khi ông bị giết
bởi một quả ḿn Việt Cộng. Đối
với tôi ông là một trong những chuyên gia sắc sảo
nhất của thế giới về Đông Dương.
Một đoạn trong cuốn sách của ông đă ám
ảnh tôi từ đó đến bây giờ. Ông Fall trích
lời một chiến lược gia của miền
Bắc Việt Nam, tướng Vơ Nguyên Giáp, người
đă qua đời 04 tháng 10 ở tuổi 102, nói với
các chính ủy của một trong những sư đoàn
của ḿnh: “Kẻ thù (có nghĩa là phương Tây) … không
sở hữu … các phương tiện tâm lư và chính trị
để chống lại một cuộc chiến tranh kéo
dài.”
Ông Fall giải
thích: Giáp không bao giờ nghi ngờ khả năng quân
sự của Mỹ nhưng ông ta tin rằng đă t́m
thấy cái yết hầu của Hoa Kỳ (nguyên văn:
“gót chân của Achilles”): Trong mọi khả năng, Giáp
kết luận là ư kiến công chúng trong một nền dân
chủ sẽ đ̣i hỏi chấm dứt việc
‘đổ máu vô ích’, hoặc giới lập pháp sẽ
đ̣i hỏi biết họ c̣n bao lâu để cứ
phải thông qua ngân sách cao ngất trời khi không có một
chiến thắng trước tầm mắt. Đây là lư do
muôn đời buộc các lănh đạo quân sự của
các quân đội ở nước dân chủ hứa
hẹn một cuộc chiến với kết thúc nhanh chóng
– để “đưa con em về nhà ngay vào dịp Giáng
sinh” – hoặc buộc các chính trị gia dân chủ phải
đồng thuận đủ các loại thỏa hiệp
nhục nhă c̣n hơn là chấp nhận cái đề
nghị cho một cuộc chiến chống du kích gần
như là lâu dài.”
Tôi tự hỏi
không biết cái phân tích chết người này [của Giáp]
được nảy ra do Washington đă không đáp
trả bằng “sức mạnh quân sự” như từng
hứa đối với bất kỳ vi phạm hiệp
ước Paris 1973 bởi quân Bắc Việt? Hiệp
định đă cho phép Hà Nội giữ 80.000 quân chính quy
ở lại miền Nam, nhưng không có một phản
ứng nào khi con số đó tăng lên đến 200.000.
Khi màn kịch Việt Nam đến đoạn thê
thảm, tôi cũng tự hỏi làm sao chúng tôi những
kẻ trong nhóm truyền thông, một đại đa
số không hề công khai hoặc ngầm đứng
về phía Việt Cộng, đă thất bại trong
việc làm cho độc giả của chúng tôi hiểu
được cái bằng chứng không thể nào chối
căi nhất là hầu hết dân miền Nam Việt Nam không
bao giờ ủng hộ cộng sản: ngay từ
đầu những phóng viên chúng tôi đă chứng kiến
họ chạy trốn Việt Cộng.
Họ không
chạy qua sông Bến Hải ra miền Bắc Việt Nam
cũng không chạy vào các vùng gọi là khu giải phóng –
để được “giải phóng” bởi những
người cộng sản. Cho đến phút cuối,
những người tị nạn đă đổ rút
về phần thu hẹp c̣n lại của đất
nước dưới sự kiểm soát của Sài G̣n; 2
triệu dân đổ vào Đà Nẵng. Những con
đường dẫn đến Sài G̣n đă bị
tắc nghẽn với dân chúng chạy trốn khiến
cuộc tiến quân của Bắc Việt bị chậm
lại, và ngay sau khi chiến tranh kết thúc, “thuyền
nhân” không chỉ vượt trốn từ miền Nam
với số lượng khổng lồ mà c̣n từ các
cảng miền Bắc nữa. Chưa bao giờ trong
lịch sử Việt Nam lại có một cuộc di cư
hàng loạt từ cái quốc gia đó – chưa hề có
trong những ngày tháng có mặt người Trung Quốc,
Pháp hoặc Mỹ. Vậy mà nó được cho là
cuộc giải phóng sao? Ngay lúc đó dù ǵ tôi cũng đă
nghi ngờ và bây giờ th́ quá tin chắc rằng luận lư
[hầu hết dân miền Nam Việt Nam không bao giờ
ủng hộ cộng sản] ấy là một trong
những thương vong của cuộc chiến tranh
Việt Nam. Và cái thành thực của tri thức cũng
thế.
Một h́nh ảnh
nhoáng lên trên màn h́nh TV của tôi ở Paris đă ở
lại với tôi trong nhiều thập kỷ bởi v́ nó
chiếu rọi vào những suy tư đó. Nó chiếu
cảnh Phó Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Cao
Kỳ ngồi ở tay lái của máy bay
trực thăng UH- 1A (Huey) hạ cánh trên boong tàu bay của
hàng không mẫu hạm USS Midway. Tôi biết khá nhiều
về ông Kỳ và đă thích ông ấy. Đúng, ông là
một vị tướng không quân Việt Nam hào nhoáng,
một con công như nhiều người đàn ông quân
sự trong suốt chiều dài lịch sử. Nhưng ông
ta không hề là thằng gian trá như thường bị
chế giễu.
Sáu năm
trước đó, tháng 5 năm 1969, ông Kỳ và tôi đă cùng
nhau trở lại Sài G̣n từ Paris, nơi tôi làm
tường thuật về các cuộc đàm phán ḥa b́nh
Việt Nam và ông đứng đầu phái đoàn Sài G̣n.
Cuộc tṛ chuyện của chúng tôi ngượng ngại
bất thường, có lẽ v́ cả hai chúng tôi biết
rằng cuộc đàm phán ở Paris không thuận lợi
cho phe của ông; rơ ràng là nhận định sai lầm
ở Mỹ và các nơi khác về Tết Mậu Thân 1968
đă phá vỡ ư chí của nước Mỹ để
theo đuổi đến cùng cuộc xung đột này
dẫn đến một kết cuộc chiến
thắng.
“Nhưng chúng tôi
đă thắng cuộc chiến Tết (Mậu Thân)!”
Kỳ nổi giận. “Tại sao người Mỹ
nghĩ khác đi?”
“Thưa Trung
Tướng, tôi biết, tôi có mặt ở Huế khi các
bạn đánh thắng,” tôi trả lời. “Nhưng công
chúng ở Mỹ và châu Âu đă nhận được
một thông điệp khác.”
Ở Huế tôi
đă đứng trên bờ một ngôi mộ tập
thể chứa thi thể của ít nhất là 1.000 đàn
ông, phụ nữ và trẻ em bị sát hại bởi
những người cộng sản. Một nhóm giới
truyền h́nh Mỹ lang thang ở
hiện trường. “Tại sao bạn không quay phim này?”
đồng nghiệp của tôi anh Peter Braestrup của
tờ The Washington Post hỏi họ. Người quay phim
của họ trả lời: “Chúng tôi không ở đây
để tuyên truyền chống cộng sản.”
Tôi đă nói
với tướng Kỳ điều này và ông ta không
đáp lại lời b́nh luận nào. Ông ta biết là tôi
đă biết chiến thắng quân sự của Mỹ và
Nam Việt Nam dịp Tết đă được biến
thành một thất bại chính trị khi [xướng ngôn
viên] Walter Cronkite tuyên bố chiến tranh không thể
thắng trên đài CBS trong một lời b́nh luận sau
một chuyến thăm ngắn sau Tết Mậu Thân.
Điều này trái hẳn với những ǵ phóng viên
chiến trường chúng tôi đă chứng kiến và báo cáo
từ Huế. “Nếu tôi mất (hậu thuẫn của)
Cronkite, tôi đánh mất Trung tâm nước Mỹ”,
Tổng thống Lyndon B. Johnson được cho là đă
nói như thế. Tôi đồng cảm với ông [Johnson]
về cảm tưởng mất mát đó và không bao
giờ tha thứ Cronkite về hành vi
nghề nghiệp cẩu thả của ông ta.
Kỳ nh́n chằm
chằm vào cánh cửa vào buồng lái của máy bay Air France.
“Tại sao ông
cứ nh́n chỗ đó?” Tôi hỏi ông ta.
“Bây giờ tôi
chỉ muốn trở lại làm phi công,” ông lặng lẽ
nói.
Cuộc trốn
thoát tới hàng không mẫu hạm Midway bằng chiếc
máy bay trực thăng Huey tự điều khiển
kết thúc sự nghiệp lái máy bay của ông.
Một vài năm
trước, tôi dạy một lớp báo chí cấp cao
tại đại học Concordia University Irvine ở
California. Chúng tôi nhắm vào các cộng đồng tị
nạn lớn và thành công của Việt Nam ở quận Cam
(Orange County). Sinh viên Kellie Kotraba, bây giờ là một nhà báo
thành công ở Missouri, t́nh cờ đọc một nghiên
cứu của một nhóm tám nhà nghiên cứu nổi
tiếng đứng đầu bởi bác sĩ tâm thần
Richard F. Mollica tại trường Harvard, có tiêu đề
“Các bất thường trong cấu trúc năo bộ và di
chứng tâm thần của các cựu tù nhân chính trị
miền Nam Việt Nam—những người sống sót sau
khi bị chấn thương đầu và tra tấn.”
Công tŕnh nghiên
cứu này, được công bố bởi Hiệp
hội Y khoa Mỹ, cho thấy hàng ngàn cựu tù nhân chính trị
hiện đang sống ở Hoa Kỳ vẫn c̣n chịu
đựng trầm trọng các hậu quả của các
tra tấn đối với họ trong thời gian bị
giam cầm trên nhiều thập kỷ trước đây.
“Phải có hơn 100.000 người,” Mollica nói với
Kotraba, người sau đó đă yêu cầu Đại
sứ quán Việt Nam tại Washington cho một nhận xét.
Cô đă nhận được lời bác bỏ qua một
điện thư của tùy viên báo chí
Phạm Tùng từ Đại sứ quán, “Thông tin cho
rằng các tù nhân trại cải tạo bị tra tấn là
hoàn toàn không đúng sự thật.”
Câu trả lời
này đúng như dự đoán. Đáng ngạc nhiên hơn
là công tŕnh nghiên cứu của Mollica ít được
sự chú ư trong giới truyền thông Mỹ khi nó
được công bố vào năm 2009, và khi tôi cung cấp
câu chuyện hấp dẫn này của Kotraba tới một
số ṭa soạn th́ biên tập viên của họ không quan
tâm.
Tôi tự hỏi
tại sao các biên tập viên Mỹ lại bỏ qua thông tin
về nỗi khổ đau với tầm cỡ quy mô
như vậy khi hệ quả của cuộc chiến
tranh Việt Nam đang ở ngang tầm? Quả là có
một sự tương đồng sát sao giữa
những ǵ đă xảy ra trong số 300 trại tù [gulags]
của Cộng sản Việt Nam với các trại
tập trung của Đức Quốc xă lúc chiếm
đóng châu Âu. Tôi vừa đọc xong một bản
dịch tiếng Pháp của Linh mục Andrew Nguyễn
Hữu Lễ–một linh mục Công giáo hiện đang
sống tại New Zealand–về trải nghiệm 13 năm
của ông ở ngục tù cộng sản, trong đó có 2.020
ngày ông bị cùm chân với những vết thương
lở loét mưng mủ đầy gịi.
Trong “Je dois vivre”
(“Tôi phải sống”), Linh mục Lễ mô tả chi
tiết thật khủng khiếp làm thế nào
người bạn của ông Đặng Văn Tiếp,
Thiếu tá quân đội và dân biểu Quốc hội
miền Nam Việt Nam, đă bị tra tấn đến
chết dưới tiếng reo ḥ của các viên chức
cộng sản và vợ con trong thỏa thích. Ông [Tiếp]
bị buộc uống một lượng lớn
nước. Sau đó tên tay chân tin cậy của giám
thị Bùi Đ́nh Thi, kẻ tàn bạo nhất trong trại
trừng phạt Thanh Cẩm, nhảy đạp trên
bụng Tiếp cho đến khi bị bể tung và ḷi
ruột ra ngoài. Tiếp chết ngay.
[Bùi Đ́nh] Thi
trước đó là Đại uư trong quân đội
miền Nam Việt Nam. Kẻ bị giam cầm tại Thanh
Cẩm gọi ông là “Kapo,” một từ lóng cho kẻ làm tay sai trong các trại tập trung của
Đức Quốc xă. Như một số cựu Kapos
của Đức quốc xă, ông đă lỉnh sang
được Hoa Kỳ. Ông [Thi] bị phát hiện ở
Garden Grove, California, bị bắt và chịu lệnh
trục xuất. Theo tin tức mới nhất ông ta đang
sống ở quần đảo Marshall.
Trong cuốn sách
của ḿnh, Linh mục Lễ mô tả các cơn chớp
hồi ức cùng với cơn đau bụng quằn
quại thường đến với ông. Chớp hồi
ức là một trạng thái y học mà rất nhiều
cựu chiến binh Mỹ biết rất rơ. Khi tôi đi
tập sự tuyên úy sinh hoạt với những
người đàn ông trong bệnh viện quân đội
ở [thành phố] St. Cloud, Minnesota, tôi đă gặp một
anh thợ bánh ḿ ở [thành phố] St. Paul, người
đă có một cơn ác mộng lặp đi lặp
lại. Ngày nào anh cũng nằm mơ về một sự
cố xảy ra gần Đà Nẵng. Anh ta lúc đó
ngồi ngoài cùng ở phía sau chiếc xe
tải quân sự và nh́n thấy một cậu bé kéo
chốt và sẵn sàng để ném lên xe tải quả
lựu đạn có thể giết chết cả trung
đội.
Người lính
giết đứa trẻ. Nhưng sau đó, đêm này qua
đêm khác, anh nh́n thấy khuôn mặt méo mó của cậu
bé chết. “Đứa bé khoảng 8 tuổi”, người
cựu chiến binh nói, “và bây giờ tôi có hai đứa con
trai sinh đôi và trong những giấc mơ của tôi khuôn
mặt của nó hao hao giống hai đứa con tôi.”
Đây là một trong những câu chuyện thật buồn
mà tôi nghe được trong lúc tập sự–một
phần của chương tŕnh thần học giữa
đời sự nghiệp mà tôi chọn–có lẽ v́
những kinh nghiệm của ḿnh là một phóng viên tại
Việt Nam.
Tuy nhiên
điều tồi tệ hơn mà tôi khám phá ra trong số
những người cựu chiến binh Việt Nam:
hầu hết các thành viên của ba nhóm chăm sóc mục
vụ tôi hướng dẫn cùng với một nhà tâm lư
học đă bị gọi là “kẻ giết trẻ con”
trong ṿng 24 giờ đầu tiên khi trở về nhà từ
chiến trường. Một cựu chiến bịnh
thậm chí c̣n bị yêu cầu không quay trở lại nhà
thờ của ông cho đến khi tóc của ông đă
mọc ra và bị yêu cầu xin vui ḷng mặc quần áo dân
sự.
Hầu hết
đàn ông trong nhóm của tôi tin vào Chúa nhưng nghĩ
rằng Chúa đă từ bỏ họ ở Việt Nam
rồi. V́ vậy họ đă “đéo Chúa” như theo cách họ nói. Tôi đă viết một án
đề thần học cho các cựu chiến binh
Việt Nam với tiêu đề “Chúa trắng án”, nhắc
nhở họ về cái nh́n sâu sắc của vị tử
đạo thần học người Đức Dietrich
Bonhoeffer, người đă nói rằng con người
được kêu gọi cùng “chịu khổ đau
với Chúa trong một thế giới vô thần”, mà trong
trường hợp của họ ngụ ư rằng Thiên
Chúa cùng chịu đau khổ với họ và luôn luôn có
mặt với họ trong khổ đau– khi họ ở
Việt Nam và sau khi trở về Mỹ. V́ vậy, Thiên Chúa
không phải là một kẻ đào tẩu nhưng là
người cùng cảnh ngộ với họ. Nhiều
người trong số các bệnh nhân t́m thấy nhắc
nhở này đáng suy gẫm.
Cho đến ngày
nay, tôi vẫn nghe các cựu chiến binh Việt Nam
hỏi, “Có phải chúng tôi hy sinh vô ích?” Là một cựu
phóng viên chiến trường, tôi không thể trả
lời câu hỏi này một cách xứng đáng. Nhưng
như một nhà thần học tôi có một câu trả
lời. Trong luận đề nổi tiếng của
Martin Luther, “Người lính có thể được
cứu rỗi hay không”, nghề nghiệp của một
chiến binh được so sánh với một bác sĩ phẫu
thuật khi phải cắt bỏ chân tay
của bệnh nhân để cứu phần c̣n lại
cơ thể của họ. Thi thoảng bệnh nhân
chết trong vài ngày hoặc vài tháng sau khi phẫu thuật.
Nhưng liệu điều này có nghĩa là cuộc
giải phẩu đó là vô ích?
Trong vai tṛ một
phóng viên chiến tranh, tôi thấy đại đa số
binh lính Hoa-kỳ và binh lính miền Nam Việt Nam trung thành
trong hành động phục vụ người khác. Phe sai
trái thắng, điều này là đúng sự thật. Trong
vai tṛ một nhà thần học, tôi phải nói thêm rằng:
con người không phải là chúa tể của lịch
sử, và lịch sử luôn luôn mở cửa cho
tương lai. Có thể sẽ mất nhiều thập
kỷ nữa cho đến khi chúng ta nh́n thấy sự hy
sinh của những người lính trổ trái chín cho
Việt Nam và chế độ cộng sản biến
mất–giống như những bạo quyền khác đă
biến mất trong quá khứ. Có lẽ đến lúc
ấy th́ thế giới sẽ khám phá ra rằng máu
người Mỹ và đồng minh của họ
đổ ra ở Việt Nam đă là hạt giống cho
một chiến thắng sâu sắc hơn nhiều so
với ǵ họ đă bị trắng tay
vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.