Kẻ tha phương nơi đất khách, quê người luôn mang canh cánh trong lòng một tấm tình hoài hương dù khác nhau về thời gian, không gian hay hoàn cảnh ra đi. Tình hoài hương đã khiến ta hơn một lần bồi hồi cảm xúc mỗi khi nghe ai nhắc tới hai chữ quê hương; với người Việt có thể là Hà Nội, Huế, Sài Gòn hay bất cứ thị trấn hoặc phố phường, xóm làng nào trên đất nước, khiến bao nhà thơ không ngăn được cảm hứng tuôn trào thành những lời thơ dào dạt tình tự dân tộc.

            Nếu chúng ta muốn đi tìm những rung động của lòng mình qua các thi ca nói lên tình hoài hương thì quá mênh mông, bát ngát, có thể đọc cả đời không hết cho nên bài viết hôm nay chỉ giới hạn trong thi ca Nguyễn Du, nói đúng hơn một số bài tiêu biểu trong số 249 bài thơ chữ Hán của thi hào mà thôi. Tình huống và hoàn cảnh của tiên sinh có nhiều điểm tương đồng với chúng ta nếu chúng ta còn nhớ tiểu sử của người, mà ở đây tôi xin phép khỏi nhắc lại.

            Tình hoài hương trong thơ Nguyễn Du sẽ được trình bày trong ba chiều, trải rộng trong Không Gian, nối dài theo Thời Gian và đi sâu vào trong Nhân Gian. Sự phân chia này chỉ có tính cách tương đối để có một dàn bài rõ ràng, dễ ăn, dễ nói, cho người đọc dễ gói mang về. Trước khi vào bài cũng xin thưa là các bài thơ dịch đều do chính người viết bài này, Hoàng Xuân Thảo để khỏi nhắc lại trong mỗi bài.

            Tình hoài hương trong không gian

            Núi sông từ xưa vẫn là tượng trưng cho quê hương cho nên mỗi khi nhắc tới quê hương là hình ảnh núi sông lại hiện ra, tràn ngập trong thơ, trong tranh và trong nhạc. Mỗi người, tuỳ địa phương đều có một dòng sông, một ngọn núi nằm trong tâm trí, lúc đậm, lúc mờ; riêng với Nguyễn Du thì đó là núi Hồng Lĩnh và sông Lam, là Tiên Điền, Nghi Xuân cùng các địa danh khác thuộc vùng Hà Tĩnh, quê hương của tiên sinh.

            Trong bài thơ Tặng Thực Đình, một người bạn, ông nói thẳng ra sông Lam, núi Hồng đối với ông là đẹp hơn cả, và đủ là nguồn cảm hứng để ông ngâm vịnh suốt đời:

 

TẶNG THỰC ĐÌNH                                                       TẶNG THỰC ĐÌNH

Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm                                    Chim trời, cá nước sao tìm?

La Thành nhất biệt thập niên thâm                            La Thành từ giã mười năm qua rồi

Đồng niên đối diện cách thiên nhưỡng                      Đồng niên gặp tựa đất/ trời

Vãng sự hồi đầu thành cổ kim                                    Chuyện vừa năm trước thôi rồi đã xưa

Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí                                       Bạc đầu sĩ khí tiêu ma

Đề bào trân trọng cố nhân tâm                                  Áo sồi người tặng mặn mà tình thâm

Mạc sầu tịch địa vô giai khách                                    Đừng lo heo hút cô đơn

Lam thủy Hồng sơn túc vịnh ngâm.                            Sông Lam núi Lĩnh đủ cùng vịnh ngâm.

            Khi chạnh nhớ quê nhà, ngoài sông núi nghìn trùng xa cách, người ta còn thường liên tưởng tới trăng và mây như nhà thơ Xuân Diệu từng thú nhận, “ Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”, như Nguyễn Du từng viết, “ Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”, “ Hồn quê gửi ngọn mây Tần xa xa...” và như Lý Bạch, “ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương.”

Chúng ta hãy lắng nghe tiếng tơ lòng Nguyễn Du rung lên cùng với núi sông, và thả hồn theo trăng mây trong những bài thơ sau đây.

            Sau khi cuộc khởi nghĩa phù Lê thất bại tại Thái Nguyên, ông cùng anh là Nguyễn Quýnh, TrấnTả Đội Thái Nguyên và Trấn thủ Thái Nguyên Nguyễn Đăng Tiến mà ông coi như anh cả nên thường gọi là Nguyễn Đại Lang phiêu bạc sang Tàu, rồi chia tay nhau tại Liễu Châu khoảng 1788, Tiến về quê Quế Lâm, Quýnh về Nghệ An mưu đồ chống Tây Sơn còn N. DU tiếp tục ngao du Trung quốc. Trước khi chia tay, ông viết tặng Nguyễn Đăng Tiến bài thơ:

LƯU BỊÊT NGUYỄN ĐẠI LANG                                     CHIA TAY CÙNG ANH CẢ NGUYỄN

Tây phong quy tụ Liễu cao lâm                                   Đưa ta tới Liễu: ngọn Tây phong

Khuynh tận ly bôi thoại dạ thâm                                Cạn chén ly bôi chuyện vãn canh

Loạn thế nam nhi tu đối kiếm                                    Thời loạn thân trai nhìn kiếm thẹn

Tha hương bằng hữu trọng phân khâm                     Quê người tiễn bạn nặng tình thâm

Cao sơn lưu thủy vô nhân thức                                  Non cao nước chảy nào ai biết

Hải giác thiên nhai hà xứ tầm?                                   Góc biển, chân trời, kiếm khó khăn

Lưu thủ Giang Nam nhất phiến nguyệt                      Còn lại Giang Nam trăng một mảnh

Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm.                        Đêm đêm vằng vặc chiếu đôi lòng.

CHÚ THÍCH:

Tây Phong đây ám chỉ nhà Tây Sơn nổi lên khiến hai người phải chạy sang Tàu rồi chia tay nhau tại Liễu Châu nổi tiếng trong câu tục ngữ, “ Ăn ở Quảng Châu, lấy vợ ở Tô Châu, sống ở Hàng Châu và chết ở Liễu Châu” vì nơi đây có gỗ qúy và tốt để làm áo quan.

Nguyễn Du, trong dịp chia tay này cũng viết tặng Nguyển Quýnh bài thơ:

 

TỐNG NGUYỄN SĨ HỮU NAM QUY                             TIỄN NGUYỄN SĨ HỮU VỀ NAM

Nam Sơn hữu điểu hàm tinh hoa                               Núi Nam chim ngậm tinh hoa

Phi khứ phi lai khinh võng la                                       Bay lui bay tới võng la coi thường

Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ                                   Núi Hồng nay có đầu đàn

Bạch đầu vô lại bất hoàn gia                                      Bạc đầu, vô lại tha hương chẳng màng

Sinh bình văn thái tàn lung phượng                           Văn phong phượng nhốt trong lồng

Phù thế công danh tẩu hác xà                                    Công danh rắn chạy vào hang thập thò

Quy khứ cố hương hảo phong nguyệt                        Về nơi trăng gió quê xưa

Ngọ song vô mộng đáo thiên nhai.                             Trưa bên cửa, chẳng mộng xa cuối trời.

Nguyễn Sĩ Hữu, theo Phạm Trọng Chánh chính là Nguyễn Quýnh, người anh hơn Nguyễn Du 4 tuổi, tới Liễu Châu thì quyết tìm đường về quê nhà mưu sự chống Tây Sơn, sau bị giết năm 1791.

 Hồng Lĩnh & Lam Giang

Trong khi tiếu ngạo giang hồ tại Trung Quốc, lòng ông vẫn luôn luôn hướng về Hồng Lĩnh qua  bài thơ:

NHIẾP KHẨU ĐẠI TRUNG                                            TRÊN ĐƯỜNG NHIẾP KHẨU

...Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng                           ..Hồng Lĩnh năm tàn theo mộng ảo

Bạch đầu thiên lý khởi thu phong                               Bạc đầu muôn dặm dãi thu phong

Mang nhiên bất khởi hoàn hương lộ                          Đường về quê cũ sao mờ mịt

Xúc mục phù vân xứ xứ đồng.                                    Trước mắt mây trôi hàng nối hàng.

            Muà thu vốn cảnh sắc đã buồn với lá vàng rơi lả tả, từng cơn gió heo may hắt hiu thổi mấy đám mây trôi lững lờ , lòng kẻ tha hương càng thấm thía hơn với nỗi niềm hoài hương. Nguyễn Du cũng cảm thấy như vậy trong bài thơ:

THU NHẬT KÝ HỨNG                                                   NGÀY THU GỬI HỨNG

Tây phong tái đáo bất qui nhân                                  Gió may chớm thổi, khách tha phương

Đốn giác hàn uy dĩ thập phần                                     Đã cảm giá băng thấm tận hồn

Cố quốc hà san khan lạc nhật                                     Nước cũ non sông nhìn bóng xế

Tha hương thân thế thác phù vân                              Quê người thân thế gửi mây Tần

Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị                                   Hôm nay bỗng ngại cảnh già tới

Hà xứ thu thanh tạc dạ văn                                        Đêm trước tiếng thu trỗi trỗi ngân

Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập                              Tự nhạo bạc đầu còn lúng túng

Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân                          Vàng bay lả tả lá đầy sân.

            Trong ba năm lưu lạc sang Tàu, nhiều khi Nguyễn Du đổi thành nhà sư Chí Hiên, mặc áo cà-sa, đội mũ vàng, tay thường cầm kinh Kim Cương, vào các chuà chiền trú ngụ, trên đường đi chỉ đề huề lưng túi gió trăng, nhẹ nhàng cất bước đường xa vạn dặm. Ông ghi lại cảnh tượng này qua bài:

MẠN HỨNG II                                                              MẠN HỨNG

Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng                      Lang thang, không rễ cỏ bồng

Giang Nam, Giang Bắc, nhất nang không                   Giang Nam, Giang Bắc túi không nhẹ nhàng

Bách niên cùng tử văn chương lý                               Trăm năm chết dí văn chương

Lục xích phù sinh thiên địa trung                                Tấm thân sáu thước dọc ngang đất trời

Vạn lý hoàng quan tương mộ ảnh                              Mũ vàng, vạn dặm chiều rơi

Nhất đầu bạch phát tản tây phong                             Tóc sương một mớ tơi bời gió tây

Vô cùng kim cổ thương tâm xứ                                  Vô cùng thương cảm xưa nay

Y cựu thanh san tịch chiếu hồng.                                Núi xanh phản ánh hồng hoài tà dương.

CHÚ THÍCH:

 Tấm thân bẩy/ tám thước chỉ người bình thường /hào kiệt, còn năm thước là người thấp hèn, Nguyễn Du khiêm tốn tự nhận mình chỉ là tấm thân sáu thước.

            Trong một lần đi Tàu, với tư cách chánh sứ, khi thuyền tới sông Tương đậu lại qua đêm, Nguyễn Du mượn cảnh tả tình thương nhớ quê nhà:

TƯƠNG GIANG DẠ BẠC                                              ĐÊM ĐẬU SÔNG TƯƠNG

Nhất khứ lục thập lý                                                   Một chèo sáu chục dặm

Du du giang thủy trường                                            Theo sóng nước mênh mông

Phù vân liên Ngũ Lĩnh                                                 Mây giăng giăng Ngũ Lĩnh

Minh nguyệt hội Tam Tương                                      Trăng vằng vặc Tam Tương

Biệt phố phân tân sắc                                                 Bến ngại ngần tiễn biệt

Dao không thất cố hương                                           Xa vời đâu cố hương

Hạc lai nhân bất kiến                                                  Hạc về, người đâu thấy?

Vãn thụ uất thương thương.                                      Cây chiều buồn vương vương.

CHÚ THÍCH: Tam Tương chỉ ba dòng sông Tương gặp nhau: Tiêu Tương, Chung Tương và Nguyên Tương. Bốn câu sau lấy ý từ bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu để tỏ nỗi lòng hoài hương của mình.

            Tuy quê hương của Nguyễn Du là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh nhưng Thăng Long trong lòng ông cũng là một quê hương thứ hai nữa, vì đây là nơi ông có nhiều kỷ niệm thời trưởng thành và nhất là có mối tình ba năm nồng nàn với Hồ Xuân Hương và hai mươi năm tình một thuở còn vương.

            Năm 1812, khi đi sứ sang Tàu, ông đã có dịp ghé lại Thăng Long, đi thăm lại các đường xưa lối cũ, ông đã thấy những thay đổi hiển hiện không khác gì một cuộc biển dâu, các thành quách cùng với các đền đài, dinh thự từ triều Lý qua các triều Trần, Lê đã bị vua Gia Long cho phá bình địa năm 1805 và san ra làm đường lộ, đồng thời xây một thành mới tại một địa điểm khác. Ông đã ghi lại cảm xúc của minh qua hai bài thơ về Thăng Long:

THĂNG LONG I                                                            THĂNG LONG I

Tản lĩnh Lô giang tuế tuế đồng                                   Núi Tản, sông Lô cảnh trường tồn

Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long                              Bạc đầu mừng được thấy Thăng Long

Thiên niên cự thất thành quan đạo                            Ngàn năm cự thất thành quan lộ

Nhất phiến cô thành một cố cung                              Một dải tân thành lấp cố cung

Tương thức mỹ nhân khan bảo tử                             Người đẹp quen xưa nay ãm trẻ

Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông                             Bạn chơi thuở nhỏ đã thành ông

 

Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy                                   Cả đêm buồn bã nằm thao thức

Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung                Tiếng địch vang vang trong ánh trăng.

THĂNG LONG II                                                           THĂNG LONG II

Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành                         Vẫn vầng trăng cũ chiếu tân thành

Do thị Thăng Long cựu đế kinh                                   Ấy đó Thăng Long cựu đế kinh

Cù hạng tứ khai mê cựu tích                                       Đường sá dọc ngang che dấu cũ

Quản huyền nhất biến tạp tân thanh                         Sáo đàn đổi hết điệu ngang cung

Thiên niên phú qúy cung tranh đoạt                          Xưa nay phú qúy mồi tranh đoạt

Tảo tuế thân bằng bán tử sinh                                    Quá nửa thân bằng kẻ mất còn

Thế sự phù trầm hưu thán tức                                   Thế sự thăng trầm đừng tiếc nữa

Tự gia đầu bạch diệc linh tinh.                                    Ta giờ tóc cũng bạc như sương.

            Đọc hai bài thơ về Thăng Long nay, ta không khỏi không nhớ tới bài Thăng Long Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan:

                        ...Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo

                        Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.

            Tất nhiên Nguyễn Du còn ngẫu hứng sáng tác nhiều bài thơ nhớ lại những nơi ông đã có nhiều kỷ niệm trong những dịp đi qua hay viếng thăm:

Vị Hoàng Doanh ( Sông Vị Hoàng, Nam Định) – Giang Đình Hửu Cảm ( Một trong tám cảnh đẹp của huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh  và Quế Giang  Hà Tĩnh) - Điếu La Thành Ca Giả ( Nghệ An ) - Long Vỹ, tên một khúc sông Lam – Đồng Lung Giang một khúc sông trong vùng Sơn Nam - Đoàn Thành và Vọng Phu Thạch  ( Lạng Sơn) - Quỉ Môn Quan (  Chi Lăng, Lạng Sơn)  -  Chùa Thầy, Sơn Tây – Đèo Tam Điệp - Hương Giang và Ngự Bình (Thưà Thiên ) - Tây Hồ (Thăng Long ) - sông Nhật Lệ, sông Nễ Giang, sông Linh Giang, tục gọi là sông Gianh và núi Cẩm Lý ( Quảng Bình) v...v…

Tình hoài hương trong thời gian

            Tình hoài hương như ta vừa cảm nhận qua thơ Nguyễn Du thật là mênh mang và bát ngát trong không gian, giờ chúng ta hãy thả hồn trôi nổi theo dòng thời gian.

            Tình hoài hương khơi dậy trong lòng kẻ du tử từ lúc nào? Còn nhớ khi xưa có người lính thú đã từng cảm thấy nỗi nhớ xa nhà ngay từ lúc:

            Thùng thùng trống đánh ngũ liên

            Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa...

Nguyễn Du cũng vậy, vừa qua sông đã cảm thấy mình là khách ly hương rồi:

Độ LONG VỸ GIANG                                                    QUA SÔNG LONG VỸ

            Cố quốc hồi đầu lệ                                          Ngoảnh nhìn quê, rơi lệ

            Tây phong nhất lộ trần                                   Gió tây, bụi ngập đường

            Tài qua Long Vỹ thuỷ                                       Vừa qua sông Long Vỹ

            Tiện thị dị hương nhân                                   Đã là khách tha hương

            Bạch phát sa trung hiện                                  Giữa cát, tóc bạc hiện

            Ly hồng hải thượng văn                                  Ngoài biển, chim gọi đàn

            Thân bằng tân khẩu vọng                               Thân bằng trên bến ngó

            Vị ngã nhất triêm cân.                                    Thương ta, lệ đẫm khăn.

CHÚ THÍCH:

 Long Vỹ Giang là một khúc sông Lam ở gần cửa biển. Tây phong ám chỉ nhà Tây Sơn. Bài này có lẽ làm trên đường đi tìm chúa Nguyễn, rồi bị bắt nhưng chỉ bị giam ba tháng rồi được thả do trấn thủ Nguyễn Thận nể tình Nguyễn Nễ cùng là quan đồng triều Tây Sơn.

 QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU                                         QUỲNH HẢI ĐÊM RẰM THÁNG GIÊNG

Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên                  Tháng giêng sân vắng trăng đầy

Y y bất cải cựu thuyền quyên                                      Hằng Nga vẫn thế còn hoài rọi soi

Nhất thiên xuân hứng thuỳ gia lạc                             Một trời xuân hứng nhà ai?

Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên                                  Quỳnh Châu vạn dặm xum vầy đêm nay

Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán                                   Anh em Hồng Lĩnh chia phôi

Bạch đầu đa hận tuế thời thiên                                  Bạc đầu lắm hận tháng ngày chuyển xoay

Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến                               Đường cùng trăng đấy ta đây

Hải giác thiên nhai tam thập niên.                              Chân trời, góc biển ba mươi năm tròn.

CHÚ THÍCH: Bài này ông làm khi ở quê vợ tại Quỳnh Hải, Sơn Nam vào ngày rằm tháng giêng, còn gọi là tết nguyên tiêu, chạnh nhớ tới anh chị em nhà bị phân tán do thời cuộc. Phần ông đang nằm chèo queo tại nhà vợ , tóc đã bạc, thế đang cùng. May thay vẫn còn vầng trăng để làm bạn trong suốt ba mươi năm dù ở chân trời, góc biển.

            Trong mười năm gió bụi, mỗi khi xuân về với mưa gió sụt sùi, trước hàng liễu rủ âm thầm, lắng nghe tiếng sóng nước sông xưa dội trong lòng, thử hỏi người lữ khách nào không trào lòng một mối cảm hoài như Nguyễn Du đã từng than thở trong bài:

XUÂN DẠ                                                                     ĐÊM XUÂN

Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm?                                  Đêm tối tìm đâu thấy ánh xuân?

Tiểu song khai xứ liễu âm âm                                     Trước song bóng liễu rủ âm thầm

Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu                               Giang hồ bệnh cũ đeo dai dẳng

Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm                               Mưa gió vùi xuân thêm tối tăm

Kỵ lữ đa niên đăng hạ lệ                                             Đất khách mỏi mòn sùi sụt nến

Gia hương vạn lý nguyệt trung tâm                           Quê nhà vạn dặm lòng đầy trăng

Nam Đài thôn ngoại Long Giang thủy                         Nam Đài ngoài xóm sông Long chảy

Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim.                            Tiếng sóng lạnh lùng tiễn cổ kim.

Đêm xuân còn ảo não như vậy thì đêm thu sẽ thê lương, tiêu sái tới chừng nào?

THU DẠ II                                                                     ĐÊM THU II

Bạch lộ vi sương thu khí thâm                                    Mù mịt hơi thu, trắng móc sương

Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm                        Tiêu điều cây cỏ khắp Giang thành

Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ                              Khêu đèn một bóng đêm dài dặc

Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm                                 Vắt tóc e rằng chí kém nung

Thiên lý giang san tần trướng vọng                            Ngàn dặm non sông buồn tưởng vọng

Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm                               Bốn muà phong cảnh độc trầm ngâm

Tảo hàn dĩ giác vô y khổ                                              Lạnh về thiếu áo thân tê tái

Hà xứ không khuê thôi mộ châm.                              Vẳng tiếng chày ai bóng tịch dương.

CHÚ THÍCH:

 Chu Công là một đại thần nhà Chu rất chăm lo việc nước, đang gội đầu có khách tới bèn vắt tóc ra tiếp hết người này tới người khác, phải ba lần vắt tóc  mới gội đầu xong.

            Giưã cảnh thu tiêu điều, một mình ngồi với ngọn đèn mờ, ngoài trời sương móc trắng xóa, đang co ro vì thiếu áo ấm bỗng nghe tiếng chày đập áo từ một phòng khuê vẳng tới trong bóng tà dương thì thấm thía nỗi buồn cô đơn biết là bao!

            Năm 1805, Nguyễn Du được thăng chức Đông Các Điện Học Sĩ và được vời về kinh đô, công việc vất vả, khiến lưng luôn luôn khom khom nhưng còn có ý là phải giữ vẻ khúm núm để tránh tai bay vạ gió, thành ra tu vẫn ở sông Hương mà nhớ về miền sông Lam, muốn được về hưởng cảnh an nhàn như bày chim âu nhưng nào có được. Mồ xanh ám chỉ mồ tổ tiên vì theo văn hóa Trung quốc, màu xanh chỉ phương Đông, tượng trưng cho quyền quý.

            Tình cảm này đã được gửi gấm trong bài:

THU CHÍ                                                                      THU TỚI

Hương Giang nhất phiến nguyệt                                Sông Hương một mảnh nguyệt

Kim cổ hứa đa sầu                                                      Xưa nay gợi lắm sầu

Vãng sự bi thanh trủng                                               Thương mồ xanh chuyện cũ

Tân thu đáo bạch đầu                                                 Chớm thu  đã bạc đầu

Hữu hình đồ dịch dịch                                                Hữu thân nên hữu khổ

Vô bệnh cố câu câu                                                     Không bệnh lưng lom khom

Hồi thủ Lam Giang phố                                               Bến Lam ngoảnh đầu lại

Nhàn tâm tạ bạch âu.                                                 Khôn nhàn như chim  âu.

            Nguyễn Du từng trải qua thập tải hay mười năm phong trần rồi mới tìm đường ra làm quan với nhà Nguyễn, trong thời gian ẩn náu đó ông phải hành xử một cách khéo léo để không mang họa vào thân.

Tuổi già, tóc bạc như sương, có cái khăn đen nhỏ để che đi thì gió lại thổi bay mất thì thật là con Tạo muốn trêu ngươi. Nhà thơ kể lại nỗi niềm này qua bài:

U CƯ I                                                                          Ở NƠI U TỊCH I

Đào hoa đào diệp lạc phân phân                                Lá hoa đào rụng tả tơi

Môn yểm tà phi nhất viện bần                                   Cửa siêu liếp vẹo che nơi bần hàn

Trú cửu đốn vong thân thị khách                               Quên mình khách trọ lâu năm

Niên thâm cánh giác lão tùy thân                               Năm chày thêm hiểu cái thân đã già

Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục                       Tha phương an phận giả ngơ

Loạn thế toàn sinh cửu úy nhân                                 Loạn ly phải biết né mà phòng thân

Lưu lạc bạc đầu thành để sự                                      Phiêu lưu tóc bạc lỡ làng

Tây phong suy đảo tiểu ô cân.                                    Gió tây thổi bạt cả khăn bịt đầu.

Tình hoài hương trong nhân gian

            Khi nhớ quê hương, người ta thường có ý nghĩ là nhớ Nước và nhớ Nhà:

            Nhớ Nước đau lòng con quốc quốc

            Thương Nhà mỏi miệng cái gia gia.

Giữa Nước với Nhà, tình cảm con người thường nghĩ và hướng tới Nhà trước Nước và khi nói tới Nhà là ta nghĩ tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu rồi tới thân quyến xa gần.

Trong thơ Nguyễn Du, đặc biệt không thấy đề cập tới mẹ, còn cha thì chỉ có một bài duy nhất Giang Đình Hữu Cảm, phải chăng vì thi hào mồ côi sớm cả cha, năm 10 tuổi, lẫn mẹ, năm 13   tuổi, tuy nhiên trong Truyện Kiều bù lại, ngòi bút Nguyễn Du đã tả đi tả lại tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi.

Bài Giang Đình Hữu Cảm  do thi hào viết khi trở lại Hà Tĩnh sau mười năm gió bụi, kể lại cảnh tượng ngày cha ông là Tể tướng Nguyễn Nghiễm về hưu năm 1771, được vua Lê ban cho ba chiếc thuyền hải mã, được dân chúng đón tiếp tại bến Giang Đình, Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh một cách long trọng và nồng nhiệt.

GIANG ĐÌNH HỮU CẢM                                              CẢM HỨNG TRÊN BẾN GIANG ĐÌNH

Ức tích ngô ông tạ lão thì                                           Còn nhớ cha xưa nghỉ lão thì

Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi                                 Ngựa xe trên bến thật uy nghi

Tiêu chu kích thuỷ thần long đấu                               Thuyền tiên lướt sóng như rồng đấu

Bảo cái phù không thụy hạc phi                                  Tàn quý phất phơ tựa hạc bay

Nhất tự y thường vô mịch xứ                                     Từ độ áo xiêm không dấu tích

Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi                                 Hai bờ cây cỏ khói sầu vây

Bách niên đa thiểu thương tâm sự                             Trăm năm thế sự sao buồn quá

Cận nhật Trường An đại dĩ phi.                                   Nay cảnh Trường An rất khác xưa.

CHÚ THÍCH: Bồ tứ là xe bồ luân bốn ngựa của các đại quan.

Nguyễn Du cũng không hề nhắc tới tình nghĩa vợ chồng mặc dầu ông có tới bốn bà trong khi trong Truyện Kiều, mối tình trai gái được tả một cách rất nồng nàn, thắm thiết cho nên đã có nhiều ý kiến phê bình là dâm thư và khuyên nhủ đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thuý Kiều. Chắc thi hào cũng bị ảnh hưởng bởi thơ Đường vì trong thơ Đường người vợ cũng rất ít được nhắc nhở tới ngoài Lý Thương Ẩn đã viết khá nhiều bài về tình tự đôi lứa. Tuy nhiên có một bài nhan đề Ký Mộng là bài duy nhất kẻ du tử Nguyễn Du tỏ lòng thương xót một người đàn bà ngàn trùng xa cách, lặn lội đi tìm ông mặc dầu những hiểm nguy ở dọc đường, nhưng lại dưới hình thức một giấc mộng:

 

KÝ MộNG                                                                     GHI LẠI GIẤC MộNG

Thệ thuỷ nhật dạ lưu                                                  Nước ngày đêm chảy mãi

Du tử hành vị quy                                                        Du tử đi chưa về

Kinh niên bất tương kiến                                            Bao năm chưa gặp lại

Hà dĩ úy tương tư.                                                      Lòng nặng trĩu tương tư.

 

Mộng trung phân minh kiến                                       Thấy nàng trong mộng tới

Tầm ngã giang chi mi                                                  Tìm ta bến sông xưa

Nhan sắc thị trù tích                                                   Nhan sắc không thay đổi

Y sức đa sâm si.                                                           Phục sức quá xác xơ.

 

Thì ngôn khổ bệnh hoạn                                             Thoạt kể nỗi bệnh hoạn

Kế ngôn cửu biệt ly                                                     Rồi niềm đau biệt ly

Đái khấp bất chung ngữ                                              Sụt sùi lời khôn dứt

Phảng phất như cách duy.                                          Phảng phất bức màn chia.

 

Bình sinh bất thức lộ                                                   Bình sinh nào biết lối

Mộng hồn hoàn thị phi                                               Hồn sao rõ thực hư

Điệp Sơn đa hổ ti                                                        Núi Điệp lắm hổ báo

Lam thuỷ đa giao ly.                                                    Sông Lam đầy kình ngư.

 

Đạo lộ hiểm thả ác                                                      Đường trường rất hiểm trở

Nhược chất lương hà y                                               Thân liễu: ai tựa nương?

Mộng lai cô đăng thanh                                              Mộng tới đèn tỏa sáng

Mộng khứ hàn phong suy.                                          Mộng tan gió lạnh lùng.

 

Mỹ nhân bất tương kiến                                             Mỹ nhân không gặp gỡ

Nhu tình loạn như ti                                                   Tình rối bời như tơ

Không ốc lâu tà nguyệt                                               Nhà trống trăng chênh chếch

Chiếu ngã đan thường y.                                            Còn soi manh áo đơn.

CHÚ THÍCH:      Bài này nổ ra cuộc tranh luận xem nàng đây là ai? Phần lớn nghĩ rằng nàng trong mộng tức là vợ ông, nếu vậy sao ông chỉ có một lần duy nhất viết về vợ mà tại sao chỉ là trong mộng? Một số nhỏ lại cho rằng nàng đây ám chỉ vua Lê Chiêu Thống, nếu vậy sao tình cảm trong bài nồng nàn, thắm thiết như tình cảm đôi lứa và từ mỹ nhân không có ai dùng để chỉ một đấng quân vương. Riêng tiến sĩ Phạm Trọng Chánh thì cho rằng nàng đây tức là người tình Hồ Xuân Hương, ngoài Thăng Long. Trong một bức thư gửi cho Nguyễn Du nàng Hương có nói rất muốn vô Đàng Trong để thăm ông nhưng thân gái dặm trường khó bề thực hiện. Ông Chánh còn đưa ra một bằng chứng cụ thể là lúc viết bài thơ này thì Nguyễn Du chưa có vợ và mối tình ba năm với nàng Hương tuy chấm dứt vì sông ngăn núi cách nhưng dẫu lià ngó ý còn vương tơ lòng. Sau đó, Nguyễn Du còn xin nghỉ bệnh, ra Thăng Long tìm nàng thì nàng đã lấy chồng là một thầy lang Nghi Tàm.Tuy vậy mối tình giữa hai người vẫn chưa đứt đoạn mà còn tiếp tục trao đổi thư và thơ cho nhau, tính ra HX Hương đã gửi cho ban tình 17 bài thơ trong khi Nguyễn Du gửi lại 11 bài. Tất cả những bài thơ này đã được viết trong bài biên khảo nhan đề Mối tình giữa Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương của Hoàng Xuân Thảo.

            Theo các giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Trần Ngọc Ninh, Phạm Trọng Chánh bóng dáng nàng Hương còn ẩn hiện suốt chiều dọc của Truyện Kiều không riêng gì trong suốt cuộc đời cuả Nguyễn Du.

            Nguyễn Du còn kể lại chuyện gặp gỡ cô Cầm, một ca kỹ, qua hai lần cách nhau 20 năm và sự biến chuyển của cuộc đời cô như một kiếp hồng nhan đa truân trong bài thơ Long Thành Cầm Giả Ca. Ngoài cô Cầm, còn hai ca nương khác cũng tạo trong lòng Nguyễn Du mối thương tâm lâu dài là ca nương thành Nghệ An và một cựu đào hát của em Nguyễn Du tức Nguyễn Ức. Cả ba bài thơ về ba nàng ca kỹ này cũng đã được ghi lại trong bài biên khảo Nguyễn Du với Triết thuyết Hồng Nhan Đa Truân của Hoàng Xuân Thảo.            Người xưa không được tự do bày tình cảm chăn gối nhưng đối với bày con thơ dại thì không qúa khắt khe cho nên trong thơ Nguyễn Du đó đây thường nhắc tới lũ con cháu ở quê nhà gồm 12 trai và 6 gái:

            …Mười miệng đói meo Hồng Lĩnh ngóng

            Một thân ngã bệnh nẻo Thành Đông

            Bạn kêu ta lắm sầu nhiều mộng?

            Thiên hạ, ai người không mộng chăng?

                                    Ngẫu Đề

Gia đình Nguyễn Du rất đông anh chị em, gồm 8 trai và 21 gái, trong đó ông đứng hàng thứ bảy nên thường được người quen gọi là cậu chiêu Bảy. Một đêm ngắm trăng, khách tha hương bỗng nhớ tời đàn em ở quê nhà:

            ...Một mảnh tình quê trăng rọi thấu

            Bao năm tiếng nhạn gợi châu sa

            Bầy em quê cũ không tăm tích

            Biết có bình an như thuở xưa?

                                    Sơn Cư Mạn Hứng

Khi đi sứ sang Tàu, lúc thuyền rời bến Minh Giang, giữa tiếng kêu như ai oán của bày vượn ông vưà nhớ các em, vừa nhớ bày con, cảm thấy buồn đứt ruột nên ngẫu hứng viết ra:

            ...Anh em cách biệt ngàn trùng

            Nhìn non lởm chởm chạnh lòng nhớ con

            Chiều tà ngại vượt Hoa Sơn

            Vươn kêu ai oán, nỗi buồn mang mang...

                                    Minh Giang Chu Phát

            Người anh gần gũi với Nguyễn Du là Nguyễn Nễ. Nguyễn Nễ ra cộng tác với Tây Sơn rất sớm, nên được làm phó sứ cho Vũ Huy Tấn sang Tàu nối lại bang giao sau trận Đống Đa. Nguyễn Nễ, năm 1794, được cử vao Qui Nhơn làm Hiệp Tán Nhung Vụ. Thành Qui Nhơn có cả thẩy 6  cụm tháp ngoài đường lộ Bắc Nam nên còn gọi là Lục Tháp Thành.

Nguyễn Du viết bài ỨC GIA HUYNH tỏ ý NHỚ ANH nhưng anh thì bị bó chân với thành còn mình dù có muốn vô thăm mà ngại đường đêm vượt đèo Hải vân lởm chởm toàn đá, ngay cả thần hồn người chân trời, kẻ góc biển, muốn gặp nhau cũng còn khó huống chi là người:

Lục Tháp thành Nam hệ nhất quan                            Làm quan Lục Tháp bó chân

Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan                                Đá đường lởm chởm Hải Vân hãi hùng

Cùng xu lam chướng tam niên thú                             Ba năm chướng khí núi rừng

Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn                                Khói hoa quê cũ lạnh lùng giữa xuân

Nhất biệt bất tri hà xứ trú                                           Đi không biết chốn trú thân

Trùng phùng đương tác tái sinh khan                         Trùng phùng chắc đợi tới lần tái sinh

Hải thiên mang diếu thiên dư lý                                 Chân trời góc biển vô biên

Thần phách tương cầu mộng diệc nan.                      Phách hồn trong mộng khôn tìm thấy nhau.

           

            Trong nhân gian có một thứ tình, tuy không cao như núi Thái Sơn và bất tận như nước trong nguồn chảy ra, tuy không nồng nàn, thắm thiết như chim liền cánh, như cây liền cành, tuy không gần gũi và gắn bó như thể tay chân nhưng là một tổng hợp của các tình kể trên, đó là tình bằng hữu. Nguyễn Trãi đã hạ bút hai câu tuyệt vời để so sánh tình bằng hữu với tình văn chương:

            Dị thư khả ái như tân nguyệt                          Sách hay yêu dấu như trăng mới

            Giai hữu tương phùng thắng hảo hoa            Bằng hữu tương phùng qúy mấy hoa.

            Trong suốt mấy tâp thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tình bằng hữu được nhắc nhở tới nhiều nhất, ở mọi không gian, mọi thời gian với những lời lẽ và tình ý vô cùng tha thiết và tràn trề thương cảm. Riêng chỉ để tiễn đưa người bạn họ Nguyễn mà ông tôn trọng và thân mật gọi là Nguyễn Đại Lang, tức Nguyễn Đăng Tiến, đã có tới 4 bài thơ lưu biệt.

            Trong phần tình hoài hương trong không gian, chúng tôi đã nói về bài thơ Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang khi chia tay tại Liễu Châu, dưới đây là một bài khác:

 

BỊÊT NGUYỄN ĐẠI LANG                                             TỪ BỊÊT ANH CẢ NGUYỄN

Quân quy ngã diệc khứ                                               Anh về, tôi đi nhé

Các tại lọan ly trung                                                    Cùng giữa thời lọan ly

Sinh tử giao tình tại                                                    Sống chết, tình mãi thắm

Tồn vong khổ tiết đồng                                               Còn mất, chí vẫn y

Sài môn khai dạ nguyệt                                               Cửa phên soi trăng sáng

Tàn lạp tẩu thu phong                                                 Nón rách tạt gió thu

Thiên lý bất tương kiến                                               Ngàn trùng xa ngăn cách

Phù vân mê thái không.                                              Trời giăng giăng mây mù.

Còn đây là một bài thơ  gửi cho bạn là Huyền Hư Tử:

KÝ GIANG BẮC HUYỀN HƯ TỬ                                    GỬI HUYỀN HƯ TỬ GIANG BẮC

Trường An khứ bất túc                                               Trường An một đi mãi

Hương tứ tại thiên nhai                                              Hồn gửi chân trời xa

Thiên nhai bất khả kiến                                               Chân trời nào thấy được

Đản kiến trần dữ sa                                                    Riêng thấy cát bụi mù

Tây phong thoát mộc diệp                                          Gió tây lá lả tả

Bạch lộ tổn hoàng hoa                                                Sương trắng, cúc xác xơ

Trân trọng hảo tự ái                                                   Vào thu xin bảo trọng

Thu cao sương lộ đa                                                   Sương móc càng la đà.

Các  nhà nghiên cứu chưa biết Huyền Hư Tử là ai. Có thể là một đạo sĩ ở Đàng Ngoài. Bài thơ toát ra một tình bạn tha thiết và ân cần. Nên chi khi tha hương ngộ cố tri thì quả là một điều may mắn , một hạnh ngộ mà chúng ta nên trân qúy và đó cũng là cảnh ngộ của Nguyễn Du khi gặp bạn cũ là Thiêm Sự Trần, vốn là đồng liêu, làm tại bộ Công:

...Thanh phong niểu niểu tự giang tân                       Hiu hiu gió mát nổi trên sông

Minh nguyệt thanh sơn thước hải tần                       Nước biếc non xanh ngập ánh vàng

Nan đới tương phùng như thử dạ                              Gặp gỡ đêm nay duyên hãn hữu

Khả liên đồng thị vị quy nhân.                                    Thương nhau đồng cảnh khách tha hương.

                                                                        ***

            Chúng ta vừa nghe Nguyễn Du bầy tỏ tấm tình hoài hương qua tiếng thơ của người đã cất lên từ khoảng hơn 200 năm trước và nếu có vị nào có cảm tưởng như tiếng thơ kia đã cất lên như thể từ chính lòng mình thì vị đó đã mặc nhiên đáp ứng được nỗi lòng thầm kín của người xưa:

            Bất tri tam bách dư niên hậu

            Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

            Giáo sư Bác sĩ Trần Ngọc Ninh có nhận định, “ Mỗi người Việt là một Tố Như, tuy không có được cái văn tài của Tố Như, nhưng cũng có được những thương cảm của Tố Như.”

            Trong những thương cảm vô vàn của tiên sinh, chúng ta đã nói tới một chút thương cảm của người tha phương đối với núi sông và những người thân yêu. Tâm tình của kẻ đi xa đối với quê nhà, bất chấp các cuộc bể dâu, vẫn trước sau như một, tình vẫn thắm, ý vẫn y, chí vẫn nguyên, đã được tiên sinh thổ lộ trong bài:

ĐẠO Ý                                                                          DIỄN Ý

Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh                                          Giếng xưa, trăng sáng chiếu

Tỉnh thủy vô ba đào                                                    Nước không gợn ba đào

Bất bị nhân khiên xả                                                   Nếu không người khuấy động

Thử tâm trung bất dao                                               Lòng này chẳng xôn xao

Túng bị nhân khiên xả                                                 Nếu bị người khuấy động

Nhất dao hoàn phục chỉ                                             Lao xao lại hoàn lặng

Trạm trạm nhất phiến tâm                                         Vằng vặc một tấm lòng

Minh nguyệt cổ tỉnh thủy.                                           Nước giếng xưa, trăng sáng.

Mong rằng chúng ta giữ mãi được tấm lòng thủy chung với Quê Hương như nước giếng xưa, trăng sáng.

                                                               ./.

CƯỚC CHÚ:

            Bài này đã được thuyết trình tại buổi hội của hội Cao Niên Toronto và hội Thi Ca Kịch Nhạc Toronto ngày 16.11.1991, hôm nay nhân ngày giỗ đại thi hào 10.8.Canh Thìn /16.9.1820, được bổ túc thêm để trình làng.