Với những người không sống tại Ḥa Lan, khi hỏi họ “có biết Aruba ở đâu không?” th́ chắc có tới hơn 99% hoàn toàn mù tịt, ngoại trừ những người thích môn lặn dưới biển sâu, và cư dân các tiểu bang phía Đông Hoa Kỳ. Ngay cả với tôi, nếu bốn năm trước không nhờ một cơ hội hiếm có, được chuyến du lịch tại đảo Saint Croix trong vùng biển Caribe, th́ chắc chẳng bao giờ tôi nghĩ tới một chuyến đi chơi tại nơi xa xôi này. Giờ đây, cũng do một t́nh cờ, cộng thêm sự ṭ ṃ muốn biết Saint Croix (thuộc Hoa Kỳ) và Aruba (thuộc Ḥa Lan) khác nhau ra sao, th́ mới có được bài du kư bạn đang đọc.

Aruba là một đảo nhỏ nằm phía nam vùng biển Caribe, cùng vĩ độ với Nha Trang. Vùng quần đảo Caribe, từ ít năm sau khi Cristoforo Colombo (Kha Luân Bố, tiếng Ư) khám phá ra Mỹ châu vào cuối thế kỷ 15, là một khu vực xẩy ra nhiều cuộc tranh giành đất của các đế quốc Anh, Pháp, Ḥa Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…, kể cả dân Viking vùng Bắc Âu cũng xúm vào đ̣i chia phần. Vài ḥn đảo đă được mua đi bán lại giữa những đế quốc (gần đây nhất là Đan Mạch đă bán cho Hoa Kỳ một số đảo trong vùng này vào đầu thế kỷ 20, trong đó có đảo Saint Croix), rồi có những giằng co trong phong trào đ̣i độc lập. Hiện nay Aruba là một vùng đất tự trị thuộc Vương quốc Ḥa Lan (Vương quốc Ḥa Lan hiện nay gồm nước Ḥa Lan nằm ở Bắc Âu và ba ḥn đảo trong vùng biển Caribe, xa Âu châu gần 8000km!). Ngoài ba ḥn đảo kể trên, Ḥa Lan c̣n một số đảo trong vùng biển này, thuộc quyền bảo hộ. Đó là tóm tắt, trên thực tế chính trị c̣n nhiều sự phức tạp trong danh xưng và quyền lợi lẫn nghĩa vụ của đôi bên.

Để ghi dấu, Ḥa Lan đặt tên phi trường Aruba là “Phi trường Nữ hoàng Beatrix” (tên theo thổ ngữ Papiament: Aeropuerto Reina Beatrix). Bà Beatrix có gắn bó với người Việt tị nạn. Bà lên ngôi ngày 30/04/1980 và nhường ngôi lại cho con trai – vua Willem-Alexander – ngày 30/04/2013. Năm bà lên ngôi là năm cao điểm của làn sóng thuyền nhân Việt Nam. Cho dù kinh tế đang suy thoái, cộng thêm dư âm c̣n sót lại của những cuộc tuần hành “khuynh tả/thân cộng” rầm rộ phản đối chiến tranh trước kia tại Amsterdam vẫn c̣n được nhắc lại mỗi khi đề cập đến cuộc chiến Việt Nam, Ḥa Lan khi đó lại là một nước đứng hàng đầu trong chương tŕnh tiếp nhận và an cư cho thuyền nhân Việt được tàu Ḥa Lan vớt. Họ được xếp vào diện “người tị nạn được mời”, hưởng nhiều ưu đăi. Bù lại, suốt trong thời gian bà Beatrix trị v́, người Việt tị nạn ở Ḥa Lan không thể nào tổ chức biểu t́nh đúng ngày 30/04. Ngày này là “Ngày Nữ Hoàng”, một ngày quốc lễ lớn và vui nhộn nhất trong năm, một ngày để toàn dân vui chơi thỏa thích.

Một cuộc sống chung khác thường

Dân bản địa Aruba vốn có gốc từ những bộ tộc da đỏ của châu Mỹ. Sau này, qua những năm bị Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha rồi Ḥa Lan đô hộ, mang theo nô lệ Phi châu (ḥn đảo lân cận Curaçao từng là một trung tâm mua bán nô lệ của Ḥa Lan), dân Aruba trở thành một pha trộn của những chủng tộc này. Thổ ngữ Aruba hiện nay thuộc ḍng ngôn ngữ Papiaments. Trên thế giới hiện có khoảng gần 300.000 người c̣n giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ này, phần lớn họ là cư dân Aruba và hai ḥn đảo nhỏ kế cận, Curaçao và Bonaire. Tuy nhiên, ngôn ngữ Papiament tại Aruba chỉ mới được công nhận là ngôn ngữ chính thức (bên cạnh tiếng Ḥa Lan) kể từ năm 2003. Các bảng chỉ dẫn tại công sở, nơi công cộng được ghi bằng hai ngôn ngữ, hay có thêm tiếng Anh. Nếu ta lấy tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ḥa Lan, Anh bỏ chung vào một cái máy xay th́ nó sẽ cho ra tiếng Papiament.

Do nằm sát Trung và Nam Mỹ, và có giao thương nhiều với Colombia, Panama, Venezuela…, tiếng Tây Ban Nha cũng rất phổ thông. Nhiều bảng chỉ dẫn nơi công cộng hiện nay chỉ ghi tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Học sinh học rất khổ sở. Trong gia đ́nh, họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Papiament. Ở trường phải học 4 ngôn ngữ cùng lúc thuộc các gịng ngôn ngữ khác nhau, mà 2 trong số này không thể dùng để giao dịch quốc tế. Trong sinh hoạt xă hội hàng ngày, những người có tiếp xúc nhiều với du khách có thể nói tiếng Anh lưu loát. Những người buôn bán, giao dịch trong phạm vi địa phương thường dùng tiếng Tây Ban Nha hay tiếng Papiament. Công chức, nhân viên tiếp tân khách sạn… phải biết nói cả 4 ngôn ngữ. Khi thăm viếng những nơi nằm ngoài khu du lịch quốc tế, tiếng Tây Ban Nha được dùng rộng răi hơn. Khi mua bán, nói chuyện với du khách, nếu muốn bàn lén với nhau, họ trao đổi rất nhanh bằng thổ ngữ Papiament, y như những người bán hàng trong các tiệm ở Việt Nam. Với khách du lịch, nếu nói được ba ngôn ngữ Ḥa Lan, Tây Ban Nha, Anh th́ rất bổ ích, v́ hiểu được cả những mặt văn hóa, lịch sử nằm sau tên những địa danh, đường phố, cơ sở v.v…

Aruba có đồng tiền riêng. Trước kia, đồng florin Aruba gắn liền với đồng florin Ḥa Lan (gulden). Cuối thập niên ‘60 của thế kỷ 20, kinh tế Aruba đang kỳ lụn bại với nguy cơ khủng hoảng toàn diện. Khi đó những tập đoàn khai thác ngành khách sạn tại Hoa Kỳ như Marriott, Hyatt Regency, Hilton…, do lời mời của Ủy ban Du lịch Aruba, đă đến bàn thảo và đề nghị lập ra một khu nghỉ mát dọc khúc biển phía Tây, mạn trên của ḥn đảo. Kế hoạch này đă cứu nguy nền kinh tế Aruba cấp thời, với những khách sạn cao ngất chứa cả ngàn người, và băi biển được sửa sang sạch đẹp, dịch vụ theo kiểu Mỹ… Chính phủ cũng thu được tiền để tân trang lại toàn bộ đường xá và tạo các tiện nghi cho cuộc cộng sinh.

Aruba v́ thế ngả dần theo hướng Mỹ. Khi Âu châu bắt đầu dùng đồng euro th́ Aruba đă lấy quyết định tháo mối dây tiền tệ với Ḥa Lan để buộc vào Hoa Kỳ, từ đó đồng florin Aruba được gắn liền với đồng đô la Mỹ, với tỷ giá cố định là US$ 1 = 1,75 Afl. V́ 90% kinh tế Aruba dựa vào ngành du lịch, và 3/4 du khách đến từ Mỹ, đồng đô la Mỹ được coi như đơn vị tiền tệ song hành trong mua bán. Nhiều du khách không biết là đồng 50 cent Aruba là một đồng tiền thuộc loại quư trong giới sưu tập, v́ ḥn đảo này được ví như một tiểu quốc, và đồng 50 cent có h́nh vuông. Đồng bạc cắc 5$ của Việt Nam Cộng Ḥa khi xưa h́nh hoa mai cũng là một đồng tiền được ưa chuộng. Đồng 5$ này hiện nay, nếu ít bị xây xát, có trị giá khoảng 8 - 10 USD (= 200 triệu lần mệnh giá ghi trên đồng tiền!).

 

Đồng xu 50 cent Aruba và đồng tiền 5$ VNCH

Tuy bạn có thể trả bằng đô la hay florin Aruba, nhưng thực tế không đơn giản như bạn nghĩ. Siêu thị lớn, và tiệm ăn b́nh dân nơi người bản xứ thường lui tới ghi giá bằng tiền florin. Xe bus Arubus của chính phủ ghi hai giá tiền nhưng họ khoái tiền đô hơn. Arubus, v́ là thể diện quốc gia, thiết lập đường xe khắp nước, có băi, có trạm, nhưng mật độ xe thưa thớt, đa phần phục vụ cho du khách không rành. Dân có kinh nghiệm, hay người bản xứ th́ ngoắc xe bus nhỏ 8 chỗ của các công ty tư. Xe này dùng ké các trạm của Arubus, chạy thường hơn, và chạy rất nhanh, lên xe đưa tiền cho tài xế, tiền nào cũng được, nhưng người dân thường trả tiền florin. Vấn đề là bạn phải biết nhận diện thứ xe này, nhiều chiếc không mang bảng BUS. Mua bán, nếu bạn trả tiền đô th́ có khi họ thối lại tiền florin cho bạn, hoặc thối tiền chẵn bằng đô, số lẻ bằng florin. Khi bạn trả tiền florin tại những tiệm lớn, họ có thể thối lại bằng tiền đô v́ thực sự họ cũng chẳng có florin đủ cho bạn, lắm khi họ tính tṛn 1 USD = 2 Afl.  Bạn chẳng thể đ̣i hỏi hơn, cả hai thứ tiền đều là đồng bạc được công nhận.

Trước mối đe dọa Aruba sẽ thành một thị xă Hoa Kỳ, Ḥa Lan luôn t́m cách ve văn chính quyền sở tại. Aruba nhận nhiều trợ cấp từ Ḥa Lan. Phân nửa số sinh viên Aruba đi học tại Ḥa Lan qua những chương tŕnh viện trợ giáo dục, với mục đích ngầm là tạo một đội ngũ trí thức có cảm t́nh với Ḥa Lan. Đổi lại, lính Thủy Quân Lục Chiến Ḥa Lan đặt căn cứ pḥng thủ mặt biển, hợp tác với đội tuần duyên Aruba có tàu tuần tra quanh đảo ngày đêm. C̣n dân bản xứ gốc Creol của Aruba nghĩ sao? Với họ, từ ngàn năm qua đă quen với nếp sinh hoạt của dân Nam Mỹ, họ có mối thâm giao với những nước lân cận, nhất là ba nước láng giềng bạn làm ăn là Colombia, Venezuela và Panama. Chuyện tṛ ngoài phố, họ dùng tiếng Tây Ban Nha hay thổ ngữ Papiament. Giao thiệp với Hoa Kỳ chỉ là tính chuyện làm sao thu lợi về càng nhiều càng hay. Giao thiệp với Ḥa Lan dường như vẫn phảng phất một quan hệ “thống trị - bị trị”. Một lư do khác khiến tiếng Ḥa Lan ít thông dụng là v́ mọi người ít dùng nó trong giao dịch thường ngày. Một triệu du khách chỉ nói tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha là một áp lực rất lớn.

Aruba, một thị xă Hoa Kỳ?

Từ phi trường đi xe vào thành phố, tôi ngỡ ngàng như lạc vào một thành phố hạng trung ở Hoa Kỳ. Từ cô bé có hai đuôi tóc cột nơ Wendy’s cho tới ông già râu chủ nhà hàng “Gà Rán Kentucky” và chú hề McDonald’s, chúng hiện diện khắp nơi. Rồi xe chạy qua các Mall với những cửa hàng thời trang lộng lẫy của các thương hiệu quốc tế, các khách sạn vĩ đại của những tập đoàn Hoa Kỳ. Con đường lộ chính nằm dọc bờ biển Tây Nam, chạy từ phi trường lên tới chót mũi đảo, dường như chỉ có tiệm tùng san sát bên phải và khách sạn bên trái, dọc băi. Dấu vết Ḥa Lan chỉ c̣n thấy loáng thoáng, qua những cửa hàng bách hóa Blokker, tiệm mỹ phẩm cho đại chúng DA-Drogist và siêu thị Spar, núp dưới tên Tàu. Một chiếc cối xay gió Ḥa Lan gần băi Eagle Beach làm biểu tượng, vài tiệm ăn tiệm nhậu đặc thù Ḥa Lan trong đó có quán The Paddock tại bến cảng Renaissance nơi thủ đô Oranjestad c̣n được coi là quán ăn thuần túy Ḥa Lan duy nhất trên đảo. Các supermarket hầu hết nằm trong tay người Tàu, có lẽ họ có cả một hệ thống nhập và phân phối hàng. C̣n chủ những minimarket phần lớn là người gốc Nam Mỹ. Minimarket ghi giá bằng tiền đô (hay bằng cả hai thứ tiền), supermarket ghi tiền florin, c̣n một vật không rời tay người ngồi quầy tính tiền là cái máy tính nhỏ. Điều rất lạ là mặc dầu tỷ giá giữa florin và đô la Mỹ cố định, tôi chưa thấy người nào lưu tỷ giá này vào bộ nhớ máy tính. Một h́nh thức ăn gian trá h́nh chăng?

 

Cối xay gió tại Eagle Beach và quán The Paddock tại bến cảng Oranjestad, hai biểu tượng Ḥa Lan

Du khách đến Aruba phần lớn là dân lắm bạc thừa tiền. Nhiều cặp tân hôn hưởng tuần trăng mật nơi đây,  công tử tiểu thư con nhà đại gia tổ chức sinh nhật, hoặc ăn mừng nhân dịp nào đó. Ḥn đảo có diện tích gần 200km2 – bằng một thành phố hạng trung – có gần 20 casino, phân nửa hoạt động độc lập, số c̣n lại nằm trong một khu riêng tại các khách sạn lớn. Con số các tiệm nữ trang đá quư và đồng hồ cao cấp nhiều gấp mấy chục lần số casino, chưa kể những tiệm và sạp chợ dành cho giới thích mua sắm hơn thích khoe tiền. Câu hỏi đặt ra là làm sao các nơi này vẫn sống năm này qua năm nọ, khi tiệm nào tiệm nấy vắng tanh vắng ngắt, cho dù Aruba được quảng cáo là nơi thu hút giới mê shopping v́ giá hạ hơn Hoa Kỳ, do chế độ thuế ưu đăi. Có tiệm c̣n quảng cáo có thể vào xem họ giới thiệu nơi thợ sửa đồng hồ làm việc, nhưng chắc không dành cho tôi. Họ thừa biết cho dù có mỏi miệng quảng cáo, nhưng tôi sẽ chọn một chiếc xe hơi loại khá thay v́ một chiếc đồng hồ Patek Philippe, Richard Mille hay Ulysse Nardin chưng trong tủ kiếng. Chi tiết này cho thấy vấn đề an ninh trên đảo được tổ chức chu đáo. Đảo nhỏ, băng đảng hoạt động là vào ngay tầm ngắm của mạng lưới an ninh công cộng.

Để phục vụ cho hơn một triệu du khách mỗi năm mà phần lớn là dân Mỹ nổi tiếng hoang phí, nước ngọt là một vấn đề sinh tử trong ngành du lịch. Nếu bạn biết rằng Aruba có khi hậu bán sa mạc, rất hiếm mưa th́ bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy cây cối hoa lá xanh tươi đầy màu sắc trong toàn bộ phần đảo dành cho kỹ nghệ du lịch. Nhưng chỉ cần rời dải đất này, đi vào giữa đảo, th́ chỉ c̣n độc những vùng đất khô cằn đầy xương rồng và cây nha đam (Aloe vera). Bạn sẽ giật ḿnh khi nghĩ tới lượng nước cần thiết để giữ cho mặt nổi của thành phố hấp dẫn với những hàng rào dâm bụt, các bụi bông trang và trúc đào nở hoa tươi tốt quanh những băi cỏ xanh ŕ, chưa kể tới nước tắm cho khách trọ xài vô tội vạ. V́ khô hạn, Nha đam Aruba thuộc loại tốt hạng nhất thế giới (hàm lượng aloin rất cao), và là một nguồn xuất khẩu chính bên cạnh dầu hỏa trước khi Aruba chuyển sang kinh doanh du lịch. Trước kia, nước ngọt được bơm từ giếng đóng hay được cung cấp từ những nhà máy tinh chế nước biển theo phương pháp bốc hơi. Từ 2015 Aruba đă chuyển sang dùng nguyên tắc “thẩm thấu ngược” (reverse osmosis) với phí tổn hạ hơn. Nhà máy lọc nước biển của công ty Nước và Năng Lượng Aruba (W.E.A.) xây sát bờ biển phía nam thủ đô Oranjestad là nhà máy lọc nước biển lớn thứ nh́ trên thế giới. Nhà máy vừa cung cấp nước vừa cung cấp điện năng cho toàn đảo này lại chạy bằng dầu cặn (một phó phẩm của kỹ nghệ lọc dầu), thay v́ dùng năng lượng mặt trời hay năng lượng gió thừa mứa trên đảo quanh năm nắng và gió. Trên xe từ phi trường tới khách sạn, bác tài đă đưa ra lời khuyên chí lư là “chớ có mua nước chai, nước ṿi ở Aruba tốt thứ nh́ thế giới”. Quả thực, nước uống ngọt lịm không có vị tạp chất, sau mới biết họ lọc xuống tới mức 15ppm (phần triệu) muối và sau đó lại cho thêm vào một vi lượng chất vôi để giữ hệ thống ống không bị ăn ṃn (nước uống ở Ḥa Lan có độ muối khoảng 60ppm). Đổi lại, dân chúng muốn xài nước này phải trả tiền khá cao so với vật giá.

 

Xương rồng và Aloe giữa đảo Aruba (trái) và nhà máy lọc nước biển của W.E.A. nh́n từ ngoài biển (phải)

Ḥn đảo Aruba có thể chia thành hai phần theo chiều dọc. Nửa bên phía Đông Bắc là khu vực du lịch dă ngoại. Nửa bên phía Tây Nam là khu vực buôn bán và du lịch ăn chơi. Trong khu vực này, càng lên phía trên, khách sạn càng cao. Nơi chúng tôi ở, Palm Beach, là băi đẹp nổi tiếng thế giới. Nơi đây là khu cao cấp (kể về chiều cao khách sạn lẫn giá tiền). Băi cát trắng tinh dài mút mắt, nước ngập đầu c̣n thấy rơ những rạn đá phủ đầy rong có những con cá nhỏ bơi ra bơi vào. Nước biển nơi đây ngày đêm luôn luôn ở mức 27 - 28°C (81 - 82°F), nước ngọt để tắm lại cũng nóng luôn! Tôi ngạc nhiên thấy băi quá sạch, không rong rêu rác rưởi. Có ǵ không lư giải được so với con số cả chục ngàn du khách trong vùng và số hàng quán dọc băi. Mấy ngày sau tôi t́nh cờ khám phá ra là mỗi sáng sớm có xe vào cào rác, sàng cát và trải lại xuống, kéo phẳng ĺ. Băi quá sạch cũng có nhược điểm, là trông giả tạo, thiếu mùi tanh của rong rác biển, không có các vỏ ṣ hến nằm rải rác. Ngay cả chim hải âu cũng chê v́ chẳng có ǵ ăn. Phía xa ngoài khơi có lũ chim chằng bè (pelican) nâu đặc biệt của vùng này và một loại chim bói cá chao liệng t́m mồi.

Theo luật, mọi băi biển trên đảo đều là băi tắm công cộng. Giữa những khách sạn vĩ đại – mỗi chiếc có trên dưới ngàn pḥng và trải dài một khoảng băi trên dưới nửa cây số, có con hẻm nhỏ cho dân thường có thể xuống băi tắm. Tuy nhiên, người ngoài ít khi vào tắm nơi khu cao cấp này, v́ không có nơi cho mướn ghế, dù…, c̣n tiệm ăn trong khách sạn hay quán nhô ra ngoài biển th́ chặt đẹp. Người ta nói xài tiền như nước, nhưng nơi đây phải nói xài tiền như thác đổ. Toàn giấy đô la xanh, bạc cắc Hoa Kỳ không chơi. Điều bực ḿnh cho du khách Âu châu và (các nước Đông) Á châu là nạn phải cho tiền tip theo kiểu Mỹ, chỉ thua các khách sạn Hồi Giáo 5 sao, nơi có người bấm giùm nút thang máy mà bạn cũng “phải” tip cho họ.

Thiên nhiên và cảnh trí tại Aruba

Băi tư duy nhất trên đảo là băi của khách sạn Renaissance, lập nên do một cḥng chéo về giấy phép. Họ lập ra một khu thiên nhiên dành riêng cho khách của họ (nếu khách ra băi không đông, người ngoài có thể bỏ trăm đô mua vé ra chơi), có thể ra tắm và ngắm đàn chim hồng hạc flamingo đi dạo chung với những loài ḅ sát trên đảo được nuôi tại đây. Với số tiền tương tự, công ty tổ chức tour du lịch lớn nhất Aruba – De Palm Tours – có hẳn một khoảng đảo tư – De Palm Island – làm khu giải trí cho bạn có được một ngày vui chơi bao luôn ăn trưa buffet chung trong 1 ticket. Không có tiền mà muốn xem chim th́ bạn có thể mang ống ḍm tới khu bảo dưỡng chim Bubali, leo lên cḥi quan sát tứ phương. Trong khu đất nước ngập sâm sấp rộng chừng hơn chục mẫu, người ta nói có mấy chục loại chim khác nhau đến tụ hội, nhưng tôi t́m hoài cũng không đếm được hơn 5. Gần bên đó là trại nuôi bướm, đặc biệt là chỉ mua 1 vé rồi muốn vào chơi khi nào cũng được, suốt trong thời gian ở trên đảo. Họ lượm những con bướm chết mà cánh c̣n nguyên, gởi qua Panama, nơi đó làm cái ḿnh giả bằng plastic, gắn cánh vô, đóng khung và gởi trở lại cho họ bán với giá hai ba trăm đô một khung 20 con bướm kiểu này (nhập bướm ép có luôn thân là phạm luật tại nhiều quốc gia!). Hướng dẫn viên nói trong vườn có khoảng 35 loại bướm. Con số nghe tưởng nhiều, nhưng chẳng thấm vào đâu so với con số 180.000 loại bướm khác nhau trên thế giới đă được định danh (theo Wikipedia). C̣n thằn lằn, cắc ké, kỳ nhông v.v… ḅ khắp nơi trên đảo, thường thấy nhất là con Kododo màu xanh và con kỳ nhông Iguana. Con này vài chục năm trước c̣n là món đặc sản của Aruba, hiện nay đă có luật cấm làm thịt (tuy vậy dân trên đảo hay vào khu lâm viên quốc gia Arikok lén bắt).

 

Thằn lằn Kododo Xanh và kỳ nhông Iguana

Phía nam, dưới Palm Beach là khu trung cấp, những khách sạn nơi đây thấp và nhỏ hơn, có băi Eagle Beach cũng nổi tiếng về sạch đẹp, b́nh dân hơn. Tuy nhiên, trừ Palm Beach ra, các băi khác dường như không có nơi thay đồ và tắm lại nước ngọt. Xuống thêm nữa là thủ đô Oranjestad, đi thêm xuống nữa là thị xă Savaneta, thủ đô cũ của Aruba. Ở Aruba, nếu đứng ở vùng này đón xe và nói “cho tới downtown” th́ có thể họ sẽ chở bạn tới Savaneta, v́ người ta cũng gọi đây là downtown. C̣n đi xuống thêm chừng gần chục cây số nữa là tới San Nicolas, thành phố cuối cùng của ḥn đảo, phố xá nhỏ xinh, có thời từng là nơi tấp nập công nhân nhà máy lọc dầu của Exxon. Nơi đây có băi tắm cho gia đ́nh có con nhỏ mang đồ ăn uống tới picnic. Băi có tên Baby Beach, hai bên có hai kè đá san hô ngăn sóng, nước rất cạn, em bé 10 tuổi đi ra xa cả nửa cây số chưa ngập đầu. Người lớn chỉ cần bước qua kè đá san hô, mang theo ống thở, đồ lặn là có thể xem nhiều loại cá. Nơi đây muốn ăn uống nhậu nhẹt th́ chỉ có một quán duy nhất, quán “Má Bự” (Big Mama), một địa chỉ có ghi trong những sách cẩm nang du lịch Aruba. Nói chung, tại Aruba, khi ra khỏi thành phố là không c̣n hàng quán ǵ nữa, ngoại trừ vài trạm bán ít thứ đồ ăn nhanh nằm rải rác dọc đường lộ. Đông vui nhất vẫn là thủ đô Oranjestad – mỗi tuần vài lần có những chiếc cruise khổng lồ cặp bến, có xe trolley bus miễn phí trong vùng city cho họ thăm thú thành phố; và khu Palm Beach, tụ điểm ăn chơi.

Thủ đô Oranjestad chẳng có dính dáng ǵ đến trái cam kiểu như Quận Cam – Orange County – ở California. Oranje đây là “nhà” Oranje-Nassau, ḍng họ hiện đang trị v́ vương quốc Ḥa Lan. Cũng như đi dọc bờ biển Tây lên cực bắc, có mũi California, trên đó có ngọn hải đăng California. Các bạn ở Mỹ thấy tên này đừng tưởng địa danh này có liên quan đến tiểu bang California. Tên California là để tưởng nhớ chiếc tàu SS California bị đắm tại mũi này năm 1891 khi đụng đá ngầm.

 

Hải đăng California và nhà thờ Alto Vista Chapel lúc nào cũng tấp nập du khách, v́ nằm trên lộ chính

Những người thích đi bộ có thể theo con đường hành hương từ thủ đô Oranjestad lên đến nhà thờ Alto Vista Chapel nằm gần nơi mỏm California. Nhà thờ này độc đáo ở chỗ khi xây xong vẫn chưa có linh mục cai quản. Con đường hành hương dài 20km là một tṛ đùa so với con đường hành hương Camino francés tới Santiago de Compostela của Tây Ban Nha, v́ nó vừa ngắn vừa chán ngắt. Nhưng bạn sẽ đi qua những xóm nhà dân thường, những căn nhà vuông vức, đầy màu sắc. Nhà nghèo lợp mái tôn lạnh. Nhà giàu, thích hoa ḥe th́ được chủ nhân trang trí ngoài vườn bằng đủ thứ vật dụng ngộ nghĩnh. Đặc biệt, những ngôi mộ trong nghĩa địa có nhiều tầng trông như những nhà lầu tí hon. Mỗi ngôi mộ là nơi an táng chung cho cả gia đ́nh, mộ được sơn màu giống như căn nhà của gia đ́nh đó, không rơ lư do v́ sao. Có lẽ không phải v́ muốn hồn người chết biết chỗ mà về, v́ dân đảo 80% theo Công giáo. Hải đăng California và nhà thờ Alto Vista Chapel là hai điểm mà tour du lịch trên đảo thường thêm vào cho rậm đám, v́ nằm ngay trên đường lộ chính, thực ra chúng chẳng có ǵ coi ngoài chụp vài tấm h́nh. Gần bên nhà thờ có một khu biệt thự lộng lẫy giá 5 - 6 triệu đô mỗi căn, cư dân là “những người từ hành tinh khác tới”. Nơi đây có cả sân golf 18 lỗ, chắc để khoe hơn để chơi v́ gió nơi đây rất dữ.

 

Một căn nhà của cư dân Aruba trang trí sặc sỡ và nghĩa địa trên đảo

Khi tới Aruba tôi mới hiểu rơ v́ sao người ta gọi là “đảo dưới gió” và “đảo trên gió”. “Gió” đây là gió xích đạo, c̣n gọi là gió mậu dịch (passat) thổi lồng lộng quanh năm từ đông sang tây. “Trên gió” có nhiều đảo, như Haïti, Sint Maarten/Saint Martin, Saba, Puerto Rico, Saint Thomas…. Đảo Saint Croix cũng nằm “trên gió”. “Dưới gió” chỉ có vài đảo, trong đó có Aruba và hai đảo lân cận cũng thuộc vương quốc Ḥa Lan. Những đảo “trên gió” chịu ảnh hưởng của luồng gió xoáy trước khi nó thành luồng gió thẳng chạy dọc xích đạo. Luồng gió xoáy này tạo nên những trận băo và cuồng phong vùng đông nam Hoa Kỳ mà ta nghe tin mỗi năm. Trong trung tâm thành phố Christiansted trên đảo St. Croix có cả một hệ thống biển hướng dẫn dân chạy trốn khi có sóng thần. Những đảo “dưới gió” gần như không bao giờ bị băo, nhưng gió dữ dội, cấp 5 - 6 thổi suốt theo một chiều Đông Bắc - Tây Nam, chỉ dịu đi một chút khi đêm về sáng. Mặt trên của Aruba hứng trọn cơn gió này, gió lồng lộng tới mức nghe bưng bưng trong đầu, mũ nón thành vô dụng mặc dù trời luôn nắng gắt. Bờ biển phía này v́ thế là nơi lư tưởng để chơi môn trượt sóng cho những tay dày kinh nghiệm sóng gió. C̣n nơi bờ biển mặt kia của Aruba cơn gió thổi từ đất ra, cho nên băi hoàn toàn không có sóng, lư tưởng cho dân chơi lướt sóng do diều kéo (kite surfing). Đảo Aruba có loại cây đặc biệt – Divi Divi (Libidibia coriaria), một cây thuộc họ Đậu, chúng có thể mọc ngược chiều gió để cân bằng trọng tâm, tạo ra nhiều dạng cây độc đáo tựa như bonsai.

Tên gọi gió mậu dịch là do khi xưa các thuyền buôn Âu châu nương theo luồng gió này để tới Mỹ châu, với một hậu quả là quanh đảo có nhiều tàu buôn bị đắm. Quanh Aruba, chỉ nội khu biển có thể bơi ra được đă có khoảng một chục chiếc tàu đang ră mục, là những điểm dân đi lặn thích tới ngắm cá, chớ c̣n tiền và vật dụng th́ đă bị hốt sạch từ lâu. Tại đây bạn cũng có thể mua vé lên chiếc tàu ngầm Atlantis đi ḷng ṿng 45 phút dưới đáy biển để xem những loại cá và san hô trong vùng, cùng lúc tạt ngang vài chiếc tàu đắm. Chiếc tàu ngầm này có thể lặn tới 150 ft nhưng v́ an toàn họ chỉ đưa bạn tới mức 139 ft (= 42 m) mà thôi.

 

Cây Divi Divi (trái) và một xác tàu đắm ở độ sâu khoảng 35 m, chụp từ tàu ngầm Atlantis (phải)

Sóng gió dữ dội nơi mé biển Đông Bắc này đă tạo nên những cây cầu đá thiên nhiên, cũng là một điểm trong những tour du ngoạn. Nói chung, những tour du ngoạn thăm cảnh quan tại Aruba, dù dài hay ngắn, chỉ là đi phất phơ chụp h́nh, trên đảo không có thắng tích lớn cho có thể dừng chân lâu hay ngồi ăn uống. Nơi nào cũng cây cối lơ thơ, nắng chói chang. Nếu mướn xe tự đi th́ cũng chỉ hai ngày là hết mức, cho dù bạn có lần ṃ vào thăm các khu phế tích của mỏ vàng xưa, vào trại nuôi đà điểu cưỡi chơi hay vào thăm trại an dưỡng lừa. Những con lừa này xưa kia là phương tiện chuyên chở khi chưa có đường xá tốt, tới khi có đường rồi th́ dân bỏ chúng đi hoang. Khách đến thăm có thể nhận bảo trợ một con lừa (làm tôi liên tưởng tới những tour du lịch tại các quốc gia nghèo, họ dẫn du khách tới các viện mồ côi và cầu xin khách bảo trợ một em bé). Khi mướn xe, có điều bất tiện là các văn pḥng cho mướn xe thường bắt mướn tối thiểu ba ngày, rồi nạn kẹt xe nơi những đường dẫn vào thủ đô, và khổ nhất là khi ở city nếu may mắn t́m được một chỗ đậu hiếm hoi th́ lại bối rối v́ trong túi bạn không có một đống tiền cắc 1 florin để bỏ vào máy!

Ngoài xe hơi bạn cũng có thể mướn xe jeep hay các loại xe UTV chạy trên cát để thử tay lái trên những đụn cát hay vào thăm lâm viên quốc gia Arikok, phân nửa ḥn đảo mạn đông bắc chỉ có đường ṃn. Giá mướn những loại xe này rất cao, một ngày bằng xấp xỉ một tuần mướn xe hơi. Xe taxi tại Aruba, cũng như ở trên đảo Saint Croix, tài xế chạy theo một bảng giá biểu lập sẵn, căn cứ trên nơi đi và nơi đến, bảng giá này có thể xem trên internet. Ước ǵ một số thành phố du lịch khác trên thế giới cũng áp dụng phương pháp này th́ du khách sẽ yên tâm hơn.

Ăn chơi trên đảo

Aruba tự hào có nhiều băi đẹp nổi tiếng thế giới nhưng tôi thấy dường như du khách không quan tâm tới vụ tắm táp. Hay họ cho tắm biển là thú vui rẻ tiền? Chơi là phải chơi trên nước và dưới mặt nước. Có những tour đi catamaran ra ngoài biển khơi cho người ta lặn xem cá, buổi chiều ăn buffet ngó mặt trời lặn. Hay dong thuyền buồm, các môn lướt sóng, jet ski…, Thích mạo hiểm th́ mướn jeep, quad… đi vào vùng hoang mạc, vào lâm viên quốc gia Arikok chơi và leo lên ngọn Jamanota, hay ngọn Đụn Cỏ Khô (Hooiberg) cách đó không xa. Tệ nữa th́ nằm phơi nắng, thỉnh thoảng nhào vào quán mua bia, đồ nhậu rồi… phơi nắng tiếp. Buổi tối, nếu không vô casino hay shopping th́ có những nơi ăn uống chào mời. Khi du lịch trên đảo Saint Croix tôi chỉ thấy họ chơi có mỗi một điệu Calypso, và người ta nhảy salsa ngay giữa quán. Trên đảo Aruba này phong thái Mỹ châu lấn át. Các quán ăn t́m cách chiêu dụ khách bằng đủ mọi loại: Mỹ đen thổi saxo hay trompet các bản Jazz và Blues; dân Trung Nam Mỹ chơi nhạc mambo, reggae; dân bản xứ múa “mọi”; rồi có các màn xiệc, vũ hóa trang…, chưa kể sân khấu lộ thiên tại food plaza ở Palm Beach có các show nhạc người xen kẽ với nhạc nước. Hôm chúng tôi đến cũng là hôm đảo đang rầm rộ tổ chức Soul Beach Music Festival lần thứ 18, hội nhạc quốc tế nổi tiếng này được tổ chức hàng năm tại Aruba vào cuối tuần Ngày Lễ Tưởng Niệm Chiến Sĩ Trận Vong của Hoa Kỳ. Năm nay có ca sĩ Maxwell, người khai sáng ra phong trào “neo soul” đă đoạt hàng chục Awards, diễn viên hài Marlon Wayans v.v…, và nổi trội nhất có lẽ là Alicia Keys, một trong những ca sĩ chủ lực năm nay, cô nàng lại làm dân mê nhạc soul phát khùng khi cover bản nhạc của Prince “How Come U Don’t Call Me Anymore”.

Quảng cáo um sùm, nhưng menu dở tệ. Người nào đến đây với mục đích t́m món ngon vật lạ th́ là điều sai lầm lớn. Nh́n quanh quất chỉ thấy fast food. Ngoài phố đầy dẫy Dunkin’ Donuts, bánh ḿ hamburger hot dog, wrap và taco, rồi sườn nướng Mexico hay Texas, và pizza. Không muốn những thứ này th́ có nửa con gà nướng ăn với khoai chiên, hay cá tôm nướng, và các thứ steak. “Nông dân chỉ ăn những ǵ họ quen miệng”, câu ngạn ngữ Ḥa Lan này cũng đúng với dân Mỹ, họ ít chịu t́m hiểu món lạ. Bù lại, các quán giải khát rất giàu mấy thứ rượu cocktail. Ngoài những loại phổ thông trong vùng, các quán c̣n chế ra nhiều thứ cocktail mang những tên gợi cảm hay ghê rợn, mỗi quán có một cách riêng. Nếu mỗi ngày bạn thử một thứ, chắc ba tháng chưa đi giáp ṿng. Bạn thích uống bia? Buổi chiều leo lên chiếc bus cho họ dắt đi “nhậu” và mặc sức ḥ hét trên xe cũng như tại các quán đă được họ ăn chia. Ly đầu họ bao (tính trong tiền tour), nhưng coi chừng, đừng quá chén! Nếu không, tới mấy quán chót bạn cũng sẽ chẳng uống nổi ly bia free này.

 

Hoàng hôn trên biển Aruba và xe bus chở đi nhậu

Qua thăm hỏi, chúng tôi may mắn t́m được một nhà hàng khác thường, đó là Madame Janette. Chủ nhân tự hào đă nghĩ ra món cá mú nướng bọc hạnh nhân bào, với lời quảng cáo “nhiều nơi cố bắt chước nhưng thất bại”. Quán nằm trong một vườn cây lớn, hoàn toàn khuất gió, ấm cúng với hơn 300 chỗ, đông nghịt, cách dọn ăn lịch sự theo phong thái Âu châu, chả trách đại đa số thực khách đến từ các nước bên lục địa này. Lời quảng cáo có thể đúng, nhưng món cá này tôi thấy chẳng có ǵ gọi là xuất sắc, duy một điều phải công nhận là khó nấu, v́ thịt cá grouper rất mềm c̣n vỏ bằng hạnh nhân bào th́ ḍn, dễ bể.

Bạn nào thích tôm cá và không kén chọn cầu kỳ th́ có thể ăn thử tại một quán ăn b́nh dân đặc biệt, nằm nơi bờ biển của thành phố Savaneta, mạn nam của đảo. Quán mang tên “Cướp Biển” (Zeerovers). Họ bán tôm và cá bắt được trong ngày – catch of the day – (hôm trước), thường là cá hồng red snapper, cá grouper (một loại cá mú da trơn), cá lưỡi kiếm, cá thu v.v… Tôm cá tươi cân xong, đổ vô rổ, rồi có người mang vô bếp chiên. Khách xếp hàng chờ một dây, lớp mua ăn liền, lớp mua mang về, chậm chân hết tôm cá ráng chịu. Bạn tới quầy khác mua nước và ra ngồi chờ ngoài cầu tàu. Khi chiên xong họ đổ trở lại vô rổ và cứ thế bốc ăn, kèm khoai chiên hay bánh bột bắp, và hành chua. Cá tươi thịt ngọt, trời gió mát, nhắp một hớp bia Balashi  hay Hopi Bon (đảo nhỏ tí cũng có nhà máy bia với ba thương hiệu), ngồi nh́n ra trời biển mênh mông là một cái thú khó t́m. Chỉ ngặt là đường hơi xa, phải đổi xe bus và lội bộ gần cây số dưới trời nắng gắt. Tuy là quán “b́nh dân”, nhưng tôm có giá 30 USD một kilô, cá phải trả trên dưới 25 đô mỗi kí. Nếu bắt taxi nữa th́ đi luôn hơn trăm bạc cho hai người. Giá xăng tại Aruba cao hơn Hoa Kỳ một chút (1,3 USD/l). Từ mỏm cuối của Aruba hay từ trên đỉnh núi Hooiberg, nếu trời tốt, bạn có thể thấy nước Venezuela mờ mờ phía nam, cách 25km. Nơi đó, với số tiền này, bạn có thể mua… 130 lít xăng (một cent USD mỗi lít – giá tra cứu trong Global Petrol Prices tháng 06/2018, nước này có giá xăng thấp nhất thế giới). Nhưng người ta nói Aruba có kư thương ước với Venezuela, không bán xăng cho dân Aruba! Chuyện khó hiểu.

 

Ăn tôm cá tươi tại quán Zeerovers, và “mẻ cá trong ngày” dành cho ngày hôm sau

***

Một ḥn đảo hạnh phúc – One happy island. Tại Aruba, bảng số xe nào cũng có câu này nằm trên cùng như một quảng cáo thường xuyên. Quả thực, nơi đây rất hạnh phúc – miễn là bạn có nhiều tiền. Nh́n vẻ mặt của những nhân viên trong khách sạn, tôi thấy nhiều điều ẩn dấu phía sau. Dân trên đảo sống cuộc hôn nhân tạm bợ với các sắc dân Nam Mỹ, trong khi họ phải lo chiều chuộng cả Ḥa Lan lẫn Hoa Kỳ để có thể sống c̣n. Mối liên hệ “yêu-ghét” này khiến tôi liên tưởng đến người dân miền nam Việt Nam 50 năm trước, khi đối đầu với cộng sản, đă phải chấp nhận một liên hệ “yêu-ghét-lẫn-lộn” với người Mỹ. Giờ đây, tôi đang là người Mỹ hay người Ḥa Lan, dù chỉ một thời gian ngắn, trên đảo Aruba. Nhưng tôi có thể làm được ǵ cho họ? Tương lai Aruba thực sự bấp bênh hơn những ǵ đang nằm trên mặt nổi. Một quốc gia sống chỉ dựa hoàn toàn vào ngành du lịch cũng giống như một nước sống hoàn toàn nhờ canh nông. Du lịch có các trào lưu của nó. Bên cạnh trào lưu du lịch sinh thái đang lên, Cuba kể từ sau khi cải thiện được quan hệ với Hoa Kỳ, hiện là một nơi du lịch đầy tiềm năng. Và đương nhiên đây là một đe dọa lớn cho Aruba. Du khách từ những quốc gia Nam Mỹ không hào phóng như dân Mỹ. Nếu t́nh huống này xảy ra, Aruba lại lùi trở lại mấy chục năm. Băi biển lại đầy rác và đường xá, phương tiện không c̣n được tu bổ đúng mức. Tôi hy vọng nhà cầm quyền trên ḥn đảo này đang ưu tư về tương lai ngành du lịch Aruba, bởi họ đang có những cố gắng cải thiện. Năm 2018 là năm đầu tiên Aruba tổ chức chạy marathon quốc tế, đây cũng là một cách quảng cáo gián tiếp. Riêng tôi, chuyến du lịch này đă cho tôi thấy là cho dù tới một nơi “tưởng là không có ǵ”, nhưng nếu chịu khó quan sát kỹ th́ ta cũng học được lắm điều thú vị.

Nguyễn Hiền

(06/2018)