Trong tiểu luận “Nói nghĩa là ǵ?” đăng trong Văn – Nghiên cứu và Phê b́nh Văn học – tập 1, nhà văn Lê Văn Siêu đă định nghĩa tổng quát tiếng nói như sau: 

“Nói là cái cách dùng những lời như những phương tiện để diễn t́nh và ư của ḿnh trong cuộc sống” [1] . 

Như vậy, nói là một h́nh thức rất quan trọng để diễn tả, để tŕnh bày hay để giảng giải cái ư nghĩ, tư tưởng, sở học của ḿnh cho những người xung quanh hiểu, hoặc thông cảm đối đáp với ḿnh. 

Thường thường, để nhấn mạnh, để làm đậm nét và để gây một ấn tượng trong đầu óc của người đối diện, ta thường chua thêm một tiếng cười kèm trước hay sau câu ta nói. Cố nhiên, tùy theo từng trường hợp một, cái cười có thể làm cho người ta khoái trá hơn, vui hơn và cũng có thể làm cho người ta căm giận, sôi máu hơn… 

Tiếng nói bộc lộ “trắng” ư tưởng của người nói nhưng cái cười nó không rơ rệt, sáng sủa như tiếng nói. Nó đ̣i hỏi người đón nhận cái cười ấy phải mất một thời gian hoặc ngắn vài giây hoặc dài đến vài năm hay có thể, cả đời nữa để mà hiểu rơ những cái nghĩa sâu sắc và cốt yếu của nó. Tiếng nói có một bề sâu vô cùng th́ tiếng cười khi đi với tiếng nói cũng có một chiều diễn tả – gồm nhiều mặt – ra đến vô hạn. 

Phạm vi của cái cười đă vô chừng và đối với dân tộc Việt th́ nó lại càng dồi dào phong phú hơn nữa: nó là cái kết quả âm ỉ, không ai ngờ đến trong suốt ba, bốn ngàn năm xây dựng và kiến tạo văn hiến, văn học. 

Trở về với những bề mặt mênh mông của cái cười Việt, ta nhận xét thấy điều này: cười không hẳn là kết quả của một trạng thái vui tươi trong tâm hồn mà nó c̣n là kết quả của vô số những trạng thái rung động khác của lư trí, tư tưởng con người nữa. 

Vui th́ cười, đó là lẽ tự nhiên của trời đất, thế mà buồn cũng cười, hả hê thoảmăn cũng cười, bị đè nén bóc lột cũng cười, tức giận cũng cười, sung sướng hài ḷng cũng cười, đau khổ chán chường cũng cười, khinh bỉ ngạo mạn hay kính phục cũng cười nốt. 

Nhưng cái cười của người Việt ta không phải lối cười mà Nguyễn Văn Vĩnh đă cho rằng “người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng h́ mà dở cũng h́, quấy cũng h́, phải cũng h́. Nhăn răng h́ một tiếng mọi việc hết nghiêm trang”. Mà là cái h́ trong đó nó ẩn náu, nó tiềm tàng cả một khối những ư nghĩ thâm trầm, sâu sắc và tế nhị vô cùng chứ không vô bổ và vô ư thức như Nguyễn tiên sinh đă nghĩ. Và nếu nhận xét kỹ, ta sẽ thấy những cái cười vô bổ vô ư thức đó nó chỉ là một cái ǵ bé nhỏ lạc lơng trong làng cười của người Việt ḿnh. 

Chủ đích của tác giả không phải là quay bề mặt của cái cười về phương diện triết học hay văn học mà chỉ dụng tâm nêu ra một số những ư nghĩ mở đầu, lôi kéo dần đến việc t́m xét từng ư nghĩa một của cái cười Việt Nam, v́ vấn đề tra khảo những cái cười trên phương diện triết học này đă 
được nhà văn Vũ Đ́nh Lưu đem ra bàn rất tỉ mỉ trước kia rồi [2] . 

V́ tính cách bao la rộng răi của cái cười nên để dễ suy nghĩ và dễ cho độc giả theo dơi, chúng tôi sẽ lần lượt phanh phui cái cười trên những phương diện khác nhau và những h́nh thức khác nhau mà độc giả sẽ xem dưới đây. 


A. Cười v́ vui 

Vui vẻ, thích thú th́ tất phải cười. Điều đó không ai hiểu nổi và cũng không giải thích được tại sao. Vui th́ tự nhiên hai bên miệng từ từ kéo dài ra và chúng ta cười. Cười như vậy là cười vui vẻ, nó tô điểm cho gương mặt thêm nét rạng rỡ và tươi tắn và khiến cho người đối diện chưa cười cũng phải cười theo. Người nào tính tính ít nói, nghiêm trang, th́ khi gặp vui như vậy cũng sẽ cười, cái cười đó là cười kín đáo, ngược lại với cười kín đáo là cười xô bồ, cười phá lên ầm ầm, cười ha hả. Vui sướng đột ngột hay thích thú quá v́ một câu châm biếm hay th́ là cười rú lên hay cười ré lên, phá lên cười, cười rộ lên, cười ồ. Yên lặng hơn nhưng cũng không kém phần thích thú là ph́ cười, bật cười. 

Cười v́ thích th́ tiếng cười tự nhiên lắm, nó sẽ là cười ầm ầm, cười dậy trời dậy đất, cười tróc nóc nhà, cười như trốt hốt, cười như vũ băo. Cười như vậy làm cho những người ngoài cuộc cũng vui lây mà cười theo. Dân ḿnh có câu “hiền như bụt cũng phải cười” để chỉ những cái cười nhộn nhịp, ồn ào ghê lắm. Không biết đă có ai thấy Bụt cười bao giờ chưa nhưng thành ngữ trên chứng tỏ người Việt cũng rất tự nhiên trong khi ví von, so sánh. Có thể người ta gởi lầm Bụt là ông Địa chăng? Ông Địa th́ bao giờ cũng ngồi phơi cả rốn ra – không biết có đau bụng không? – miệng lúc nào cũng cười toe toét, chẳng hiểu thích thú cái ǵ. V́ cớ ấy nên hễ ai cười rộng miệng quá th́ bị ban cho chữ cười toe toét như ông Địa! Có lẽ trong tất cả thần thánh mà người Việt tôn thờ chỉ có ông Địa là cười vui đáo để mà thôi nên ông hay bị đem ra trêu chọc, đùa bỡn nhiều nhất… 

Cười gịn tan là tiếng cười hết sức tự nhiên, nó biểu lộ sự khoái trá tột cùng. Cười gịn tan thật ra cũng chỉ là một tiếng rất rộng nghĩa, nó bao gồm những tiếng cười khác ngụ một ư thích thú hồn nhiên chứ không gượng ép. Nhiều người cùng cười gịn th́ người ta nói là cười ḍn như pháo nổ, tiếng cười lúc đó cứ rào rào lên như pháo giao thừa ấy. 

Cười reo lên, cười hồn nhiên là tiếng cười của mấy đứa bé con hay đôi khi, c̣n để chỉ tiếng cười của những cô gái khi gặp điều ǵ thích thú, vừa ḷng. Trẻ con c̣n có thêm giọng cười khúc khích nữa. Tuy vậy, để chỉ tiếng của một nhóm đôi ba người đang nói lén hay đang trêu ngầm một nhóm đôi ba người đứng đó không xa lắm người ta cũng dùng chữ cười khúc khích. Nhỏ hơn và nhộn hơn th́ lại là cười rinh rích cười rúc rích. Thú vị quá, không đè nén nổi th́ bật lên cười sặc sụa, cười như nắc nẻ, cười ầm ĩ như phá làng phá chợ. 

Cười khanh khách cũng đồng nghĩa như cười hăng hắc nhưng hai cái cười này thường th́ không được tự nhiên và chủ đích của tiếng cười một phần cũng để làm vừa ư người đối diện. Cười trong trẻo như tiếng chuông ngân th́ có thể gọi là cười sang sảng hay cười rổn rảng, ai có cái giọng cười này th́ người đó ắt phải có phổi tốt và tiếng nói tốt lắm v́ đồng thời với cười sang sảng c̣n có nói sang sảng nữa. Tiếng mới bây giờ do các ông nhà báo vừa khai sinh là cười tồ tồ như… nước chảy. Nghe qua th́ có hơi dơ dáy và rẻ tiền thật. Đi kèm với tiếng ấy người ta có thành ngữ: Vén môi cười tồ tồ. 

Cười khoái trá quá độ hay cười khoái chí tử th́ lại là cười đỏ cả mặt, cười lăn lộn, cười sằng sặc như bị ai bóp cổ hay cười ằng ặc như lợn bị chọc tiết… Đồng nghĩa với cười lăn lộn ta lại có tiếng cười ḅ lê, cười ḅ kềnh hay ḅ càng, cười quay cu lơ chổng bốn vó lên trời. Những cái cười đó gọi chung là cười trửng giỡn, cười đủ mỡ, cười nghe có vẻ mát da mát thịt lắm. 

Cười như điên là để chỉ cười nhiều lắm, cười nổi đ́nh nổi đám th́ cũng vậy nhưng tả chân hơn, có người c̣n gọi là cười đổ ly nước. Từ bé đến lớn, tác giả chưa hề thấy ai có cái cười đến đổ ly nước cả. Cười làm rung động mặt nước trong ly th́ có nhưng đâu chỉ một lần khi người cười đặt miệng gần miệng ly rượu. Nhưng biết đâ đó v́ là hơi thở của y chăng? 

Cười nhiều quá đến thất thanh là cười lạc giọng, cười chảy nước mắt, cười ngất, cười ngoác mồm ra. Cười ngất c̣n đi với thành ngữ là ôm bụng cười ngất. Diễn tả hành động ôm bụng cười ngất ấy người ḿnh c̣n có tiếng nói là cười ngặt nghẽo, cười gục đầu gục cổ, cười bật cả người ra sau. Nếu rủi ro ghế không có thành dựa hay không có ai đỡ th́ lại là cười té ngửa, cười ngă bổ chửng, cười lăn lông lốc v.v… Cười như thế th́ quả là hả hê, quả là đáng đồng tiền bát gạo nuôi cho lớn thật! 

Cười lâu quá th́ sẽ bị chửi cho là thứ đồ ǵ mà cười dai như giẻ rách, cười dai nhách như đỉa đói. Dùng chữ nhẹ nhàng êm ái hơn th́ là cười liên tu bất tận, cười mê man như bị quỷ ám, cười quên thôi, cười như lên đồng lên bóng th́ cũng có nghĩa như vậy. Nhưng coi chừng, cười quá th́ mệt lắm và có thể bị nghẹn thở được. Ở Phi châu, một vài sắc dân hay mắc phải một chứng bệnh kỳ quặc là cười, cười măi, cười đến độ tắt tiếng đến ngộp thở và… về Giời luôn. 

Người ḿnh mà cười nhiều quá th́ khi nín cười hay im cười rồi thường thở phào nhẹ nhơm: “Gớm, tao cười đến lộn cả ruột”. Cười nôn ruột là một điều rất nguy hiểm, nó làm ta cảm thấy mệt nhọc vô cùng có lẽ là bị hụt hơi. Người miền Nam thay chữ cười nôn ruột bằng cười đau bụng, cười quặn ruột, cười phát thốn hay cười bể bụng – mấy anh Ba hủ tíu nhai lại là cười pể pụng, pể pụng… - Người Bắc đôi khi c̣n thay tiếng cười nôn ruột bằng cười ù cả tai, cười nghẹn thở, cười chóng vánh mặt mày, cười đến xây xẩm, cười đến nỗi thấy trời đất quay cuồng mù tịt chả biết mô tê ǵ nữa… 

Nhiều người có hàm răng đẹp, cười chỉ với mục đích là khoe răng cho người khác thấy, cười như rứa là cười khoe răng, ra cái bộ ta có hàm răng đều và đẹp lắm – điển h́nh nhất là cái cười bất hủ của chú chà Hynos – Nhưng cũng phải cẩn thận, gặp người có cảm t́nh với ḿnh th́ không sao chứ rủi gặp đứa khốn nạn thối mồm nói lại tán cho là: “Thằng cha thấy tởm quá, cười răng cả rổ ấy!”. Răng mà cả rổ th́ cũng hơi quá, nhẹ hơn th́ nó lại gọi là cười ǵ mà phơi cả răng cấm răng hàm ra thấy mà ghê. Danh từ thích hợp nhất mà người ta dùng để gọi tên cái cười lởm chởm ấy là nụ cười ấp chiến lược. Răng đẹp th́ khoe răng ra mới có người ngắm và ḿnh mới hả dạ, chứ loại răng hàng rào ấp chiến lược, răng bừa cào hay loại răng cải mả vàng bợn th́ ai mà dám nh́n. Mới liếc không cũng đủ giăy lên đành đạch rồi, ngắm với nghía cái nỗi ǵ? Trước kia, người ta có cái mốt bịt mỗi một chiếc răng vàng – răng chó ở một bên miệng – để lâu lêu khè ra một cái làm duyên với đời chơi cho vui. Tiếc rằng mấy lúc sau này, mốt bịt răng vàng duyên bị ch́m dần chứ nếu không th́ có lẽ c̣n nhiều màn đau tim hy hữu và chữ cười trong ngôn ngữ Việt Nam may ra được thêm vài chữ nữa chứ chẳng chơi… 

Cười là một điều tốt, nó là một liều thuốc bổ làm cho ta thấy tươi tắn và yêu đời hơn, nhưng cũng đừng v́ vậy mà lạm dụng cái cười. Thú vật không có con nào là biết cười cả, vậy con người biết cười phải cười cho đúng chỗ. Người mà đụng đâu cười đó th́ bị mắng cho là cười vô duyên, cười lăng nhách, cười lăng xẹt, cười không phải chỗ, cười vô lối. V́ không đáng cười cũng cười nên lắm khi nụ cười thành sượng sùng, tiếng cười thành lạt lẽo khó nghe. Lúc cần tiếng cười để tăng thêm phần giá trị của câu nói lại không cười, lúc cần nghiêm trang th́ lại muốn ph́ cười, ấy là cười vô ư thức. Dân ta có câu “Vô duyên chưa nói đă cười” là vậy. Chọc cho người khác cười mà người ta không cười th́ thành cười gượng, cười ngượng nghịu, mắc cỡ… 

Cũng trong cái cười vô ư thức, người không biết giữ ǵn khi khoái trá th́ bật cười lên như khùng, cười văng nước bọt vào đầy người đối diện, làm cho họ phải ghê tởm và rủa thầm là thứ đồ cười không ư không tứ ǵ hết. Gặp hạng người này khi nói chuyện với nó th́ phải nhớ mặc áo mưa, đội mũ tử tế kẻo ướt cả áo quần rồi lại ho, hen, sài, đẹn th́ khốn! 

Cười sái mùa, cười lộn ngơ cũng cùng một nghĩa là cười sai chỗ, cười trật búa, cười hả hê là ci đến mức đă đời, cười rồi thấy khoan dung trong ḷng, thấy đáng tiền đáng gạo quá. Đôi khi dùng ép người ta cũng có cười no nê, cười hả dạ thay cho chữ cười hả hê đă tương đối cũ. 

Cười ha hả là tiếng cười biểu lộ sự thích thú của các cụ già ngồi rung đùi, ngâm thơ, uống rượu. Kể chuyện con cháu, các cụ cũng cười hà hà để tỏ ư yêu thương dễ dăi. 

Cười hí hởn cũng là vui mà có; loại cười này thường thấy nở trên mặt của mấy cậu bé con được mẹ cho quà, thích chí lắm. Nhiều nơi c̣n gọi là cười hí hửng, cười cẩng mặt lên như khỉ phải gió ấy! Cười thoả măn là tiếng cười biểu lộ sự vừa ư, nó cũng đồng nghĩa với cười hài ḷng, cười khoan khoái, cười sung sướng, cười măn nguyện. Khi đó, đương sự vui vẻ lắm, mồm cười tươi tắn, cười tươi như hoa mơm chó í mà. Mặt bấy giờ rạng rỡ hẳn lên, ấy là cười rạng rỡ. 

Được ai kể cho nghe chuyện ǵ bí mật mà bấy lâu nay hằng ao ước th́ lại cười thích thú. Cười thích thú th́ cũng tùy người, có khi nó chỉ là những nụ cười thoáng qua và có khi nó là cả một trận cười trời long đất lở không chừng. 

Trở về với những cái cười rung nhà chuyển núi, người ta có thành ngữ cười như vượn trên rừng hay cười như đười ươi sở thú. Cả hai tiếng đều được dùng để chỉ tiếng cười không có khuôn phép, tiếng cười vừa dài dằng dặc lại vừa ầm ầm như sấm dậy của mấy tay anh hùng đứng bến gặp điều ǵ hài ḷng thích thú. 


B. Đàn ông cười 

Tác giả xin dành riêng một phần hẳn ḥi để bàn về những cái cười bê bối của đàn ông mà chắc là ai cũng đă có nghĩ đến và biết qua khá nhiều. Không phải tác giả là người hẹp ḥi, có ác cảm với giới mày râu – v́ thực ra tác giả cũng chỉ là một kẻ tu mi nam tử như ai vậy – nhưng là v́ bọn đàn ông ḿnh cứ nhiều cái cười không chê vào đâu được! 

Thích thú một điều ǵ, ít khi nào – ít khi chứ không phải không bao giờ – dân đàn ông có cái cười trong sạch đâu. Tự nhiên dù là vui v́ một chuyện rất đàng hoàng, tiếng cười lúc bật lên bao giờ cũng nghe có pha một vẻ ǵ đáng ghét và dơ dáy lạ. 

Cười nham nhở là thường t́nh nhất. Cái cười nham nhở không bật ra thành tiếng như những cái cười khác, mà nó thể hiện qua gương mặt của người cười. Cười nham nhở th́ hay toét mồm ra nên có khi người ta cũng gọi trệch đi là cười nhăn nhở. Đồng nghiệp của cười nham nhở là cười khả ố. Cười khả ố th́ không được yên lặng như cái cười nham nhở, nó bật ra một tràng dài toàn là những tiếng nghe mà ngứa ngáy cái lỗ nhĩ. Thực ra, tiếng cười khả ố không xác định hẳn ḥi thành một thanh âm nào cả, nó có thể hô hô hô…, hê hê hê…, he he he…, hi hi hi… nghĩa là rặt những thanh âm khởi đầu chữ h và không có dấu. Khi tiếng cười có bỏ dấu vào th́ lại khác, chừng đó tiếng cười không c̣n kéo dài bất tận như tiếng cười khả ố nữa mà nó là cái cười gióng một, bật ra thành từng cặp hai tiếng, từng cặp hai tiếng mà thôi. Đó là cười thô bỉ, cười bỉ lậu. Tiếng sẽ là hế hê, hé he, hố hô, hí hi v.v…Tác giả không kể hét ra đây v́ những tiếng cười này không có ǵ để mà đo lường nó được cả, cái số lượng của nó tùy thuộc vào người sử dụng cái cười có sáng kiến hay không… 

Đồng nghĩa với cười nham nhở, cười khả ố, cười thô bỉ là cười hềnh hệch, cười sàm sỡ. Cười sàm sơ c̣n là biểu hiệu của người không đứng đắn nữa trong khi những cái cười kể trên có thể là của một tên xưa nay vẫn hiền lành nhưng trong một phút bốc đồng muốn quên cái sự đời nên mới bật miệng mà văng ra như vậy. Cười sàm sỡ quá lố, nhất là khi đối diện với phái nữ – tức địch quân của bọn râu mày – th́ bị chửi cho là cười mất dạy, cười tục tằn, bỉ ổi. Đó là nhẹ, gặp nương tử nào đáo để th́ tác giả của cái cười sẽ bị ban cho một tiếng rất nặng là cười dê xồm, cười ba mươi lăm. 

Nghe hai cô cong cóc kháo nhau: 

“Mày quen thằng đó à?" 

"Ừ, rồi sao?" 

"Nó ‘dê’ lắm!" 

"Sao mày biết?” 

“Nghe nó cười tao biết ngay!” 

Nghe cười mà biết ngay là dê th́ cái cười quả là gớm ghiếc thật. Chữ cười dê th́ chỉ có “địch quân” mới ban cho ta chứ thực ra, dân mày râu với nhau không ai lại chơi nhau đau vậy. Tuy nhiên, tác giả cũng công nhận một điều là đáng ghét. Sáng sớm mới bước ra khỏi cửa – nhất là mấy cô v́ với bọn đàn ông th́ ăn thua ǵ – nghe những tiếng cười hẻ hẻ, hề hề, he he nó đuổi theo đằng sau th́ thật là muốn tặng cho mấy guốc quá! 

Trong nhóm cười dê th́ có: cười suồng să hay cười cợt nhă, cớt nhă là giai đoạn khởi đầu nhé, rồi mới qua đến cười xỏ lá. Trong nhiều trường hợp, chữ cười xỏ lá không có nghĩa là dê cụ, dê non ǵ hết. Nó c̣n có thể là cái cười của mấy chị đàn bà nữa. Tiếng cười xỏ lá thường sau một câu khen hăo, khen để chọc gan người ta, làm cho người ta biết là bị chọc quê mà không trả thù được. 

Sau cái cười xỏ lá th́ lại là cười híp mắt. Cười híp mắt đi đôi với thành ngữ – rất nặng – mặt lợn mồm ḅ cười híp mắt! Cười híp mắt có lẽ là một trong những h́nh thức cười đáng ghét nhất v́ nó biểu lộ hẳn ḥi trên khuôn mặt. 

Ở trên có đề cập đến chữ cười cợt nhă hay cười cớt nhă. Cười cợt nhă hay cười cớt nhă khác với cười cợt. Cười cợt ngụ một ư tưởng vui tươi, tự nhiên, c̣n cười cợt nhă hay cười cớt nhă lại ngụ một ư tưởng, một cử chỉ không đàng hoàng, không đứng đắn. 

Cười đểu cáng là một lối cười đặc biệt, có thể bật lên thành tiếng và có thể chỉ là một cái nhếch mép. Cười đàng điếm hay cười sở khanh cũng đồng nghĩa với cười đểu cáng. Cười dâm ô hay cười dâm đăng là cái cười dơ dáy nhất, nó cũng giông giống như cái cười đểu cáng: có thể bật lên thành tiếng hay chỉ là một cái nhếch mép mà thôi. Điển h́nh nhất của tiếng cười này là cái cười của các ông vua, ông quan trên sân khấu hay trên màn ảnh v.v… 

Cười tiếu lâm là cái cười biểu lộ sự khoái trá, thích thú với lập pháp! Tác giả của cái cười này thường sử dụng nó về sau khi kể hay nghe được chuyện tiếu lâm vớ vẩn. Trong nhiều trường hợp, cái cười tiếu lâm c̣n đi đôi với cười xỏ lá để quậy cho người ta tức thêm. Cười đê mạt là tiếng gọi chung các thứ cười ở trên, nó c̣n có chữ đồng nghĩa là cười hạ cấp. Cười man rợ th́ chắc chắn là bật lên thành tiếng và tiếng này hẳn là nghe nó khốn nạn, nó… duy vật lắm; nặng hơn th́ lại là cười thú vật. 

Cười xấc xược, cười hỗn láo, cười láo xược, cười lấc cấc và cười vênh váo tỏ một ư tưởng ương ngạnh, trong đó, tiếng cười vênh váo c̣n ngụ ư hỗn hào và kiêu căng nữa. 

Đối với những tên cướp, những tên sắp giết người, tiếng cười của chúng được tặng cho một tên tuy không có thật nhưng lại rất tượng h́nh, đó là cười sặc mùi máu, cười tanh tưởi, cười lạnh cả gáy, lạnh cả xương sống. C̣n đối với các bợm nhậu th́ tên gọi thực hơn: đó là cái cười sặc mùi rượu. 

Trên là những lối cười điển h́nh cho giới đàn ông râu ria lởm chởm. Tiếng cười tuy tệ hại thật nhưng ít ra nó cũng đă nói lên ít nhiều sự biểu lộ tư tưởng của họ qua giọng cười. Tuy vậy, không ai có thể trách móc hay ép buộc giới đàn ông phải từ bỏ những cái cười ấy. Đàn bà không có giọng cười giống như vậy nên lối cười đó là một độc quyền, một biểu hiệu của phái đàn ông mà có lẽ, nếu ai không có một trong những cái cười đó th́ chắc là không “xứng đáng” để làm đàn ông nữa! 


C. Cười t́nh 

Cười t́nh là biểu lộ cái t́nh cảm thương, yêu qua cách cười và giọng cười. Cười duyên là cái cười cố ư tạo cho gương mặt một nét tươi tắn, duyên dáng. Cười duyên có thể nói là không bao giờ bật lên thành tiếng; v́ dù cái cười có đẹp đến thế mấy, có dễ thương xinh tươi đến thế mấy mà lại phát ra thành tiếng khanh khác th́ thật chẳng có duyên dáng tí nào mà lại có thể bị gọi cho là cười vô duyên nữa. Trong mục cười duyên có những cái cười sau đây: 

Cười mím chi hay mánh chi cũng là cái cười yên lặng. Cười mím chi không phát ra thành tiếng và cũng không toét miệng ra lớn quá. Thường, cái cười mím chi cũng là một cái cười nhẹ và không để răng ra ngoài. Cười tủm tỉm cũng không khoe răng và là một cái cười thật nhẹ nhưng dài hơn cười mím chi. Cười chúm chím là cười mà cố nén không toét miệng ra rộng quá nên môi của người cười hơi chúm lại. Cả hai cái, cười tủm tỉm và cười chúm chím c̣n ngụ một ư đặc biệt là để trêu ghẹo, đùa cho thẹn chơi vậy; nhưng cái cười tủm tỉm v́ chậm và lâu hơn cười chúm chím nên người bị trêu dễ nhận hơn là cười chúm chím. Người bị trêu ghẹo, muốn khỏa lấp th́ cũng cười, nhưng cái cười có tính chất và h́nh thức khác, đó là cười thẹn thùng hay cười thẹn tḥ, thẹn thùa và cười e lệ. 

Cười ngây thơ là cái cười của những đứa trẻ dăm ba tuổi khi thấy ǵ lạ mắt, lạ tai. Nhưng đồng thời đôi khi cũng được các cô – chỉ các cô thôi, v́ bọn đàn ông mà cười ngây thơ th́ sống sao nổi?! – áp dụng trong kế hoạch tấn công tâm lư vào tinh thần đối phương đang sừng sững trước mặt. Rủi ro cái cười không c̣n chút vẻ ngây thơ ǵ cả th́ tác giả của nó sẽ bị biếu cho tiếng cười ngây thơ hay cười lăo! Như vậy, cười cũng là một chiến thuật rất tinh vi mà nếu áp dụng sơ hở có thể chết như chơi. 

Cười t́nh tứ là cái cười cốt yếu trong phần cười t́nh này. Mặc dầu nằm riêng một mục nhỏ nhưng tất cả những cái cười trong phần này đều thuộc phạm vi của cái cười t́nh tứ. Cười đa t́nh là một h́nh thức lớn của cười t́nh tứ, văn chương hơn th́ là nụ cười ong bướm… Cười nụ để tạo duyên dáng nên đôi khi không phải v́ vui hay khoan khoái trong ḷng. Cười nhoẻn hay nhoẻn miệng cười ngụ một ư vui vẻ. Hai người bạn trẻ giống nhau cũng thường có cái cười này để làm câu chào hỏi. 

Cười má lúm đồng tiền đôi khi không hẳn là cười t́nh. Cười nũng nịu là để làm nũng ai một điều ǵ, không được th́ cười hờn dỗi hay hờn mát. Cười âu yếm hay cười tŕu mến cùng một nghĩa thương yêu như nhau. Những cái cười đó có thể gọi chung là những cái cười khả ái, dễ mến, nó làm tăng thêm t́nh cảm giữa hai phe, tạo nên một bầu không khí thông cảm, thông cảm… 

Cười lẳng hay cười lẳng lơ, cười lơi lả ngụ một ư tưởng và tạo một cử chỉ đàng hoàng. Nó chỉ có thể làm thích thú những người không đứng đắn, c̣n đối với người đàng hoàng th́ nó chỉ làm cho người ta khó chịu và bực bội hơn. Trong Nam, người ta thường thay chữ cười lẳng lơ bằng cười lẳng lúa. Dùng chữ nặng hơn để có ư miệt thị người miền Bắc c̣n gọi là cười đĩ thơa, cười dâm dật, cười trắc nết, ngả ngớn. 

Cười ru hồn người ngụ một ư tưởng mê hoặc cho nên người ta c̣n gọi đó là nụ cười mê hoặc khách anh hùng hay cười bao tự. Những cái cười đó có thể là cười lôi cuốn, cười quyến rũ hay cười hấp dẫn như đá nam châm. Ba cái cười mới này hơi có khác ở trên chút xíu là trong vài trường hợp, chúng không phải là những cái cười cố ư mà có thể chỉ là vô t́nh. Cười nghiêng nước nghiêng thành đồng nghĩa với cười Bao Tự. Cười cong cớn đôi môi th́ chắc chắn là cái cười của các cô để làm ra vẻ nũng nịu, hờn mát rồi. 

Cười mơ mộng là cái cười vô t́nh, cái cười bất chợt điểm trên mặt một nhân vật nào đó đang nghĩ, đang mơ mộng tới một điều ǵ thích thú hay một ngoại nhân nào khác – thường là nghĩ tới địch quân của ḿnh. Cười mơ mộng c̣n có các đồng nghĩa khác là cười lăng mạn, cười một ḿnh, cười vơ vẩn, cười bâng quơ. Diễn tả một cách văn chương tiểu thuyết th́ là cười xa vắng. 

Đủ chuyện cả rồi. 

… Bây giờ rủi ro như bị thất t́nh, bị người yêu hất hủi, đá đít, nạn nhân sẽ đau khổ lắm và có thể khóc được, nếu là phái yếu. Gặp giới đàn ông con trai th́ khi hỏi chuyện nhau, họ lại cười! Nhưng lần này cái cười không c̣n đượm nét vui vẻ thích thú nữa, mà là cái cười đau khổ, cười chua chát, cười méo mặt, cười chán chường, cười mà trong ḷng tan nát, đau đớn khổ sở mà vẫn phải cười, cười cho quên đời quên ḿnh. Đó là những cái cười bi quan, yếm thế, cười đượm vẻ cay cú, hận đời và hận ḿnh. Bị bạn bè châm biếm, trêu trọc th́ nạn nhân cười buồn, cười gượng gạo, chịu đựng; cho nên lắm khi lại cười cười ra nước mắt nữa. 

Gặp người có chí khí, tinh thần cứng cỏi th́ khi ấy, cái cười của họ là cái cười trầm tĩnh, cười thâm trầm, sâu sắc, một đôi khi c̣n có thể là cái cười thản nhiên nữa. Chữ cười thản nhiên ấy lại đồng nghĩa với chữ cười đời, tỏ ư xem thường cuộc đời và cho rằng đời là thế, có đếch ǵ mà buồn! 

Riêng những ông bạn quư trêu chọc người ta trong lúc người ta đau khổ th́ bị chửi cho là: vô duyên! Cười trên sự đau khổ của người khác; dạy đời hơn th́ là. 


Cười người chớ vội cười lâu, 
Cười người hôm trước hôm sau người cười. 



D. Những cái cười khác 


Trước đèn xem truyện Tây Minh 
Gẫm cười hai chữ nhơn t́nh éo le! 


Gẫm cười hay cười suy gẫm là cái cười ngầm cho ta biết tác giả của nó đang nghĩ ngợi, nghiền ngẫm về một ư tưởng nào đó. Có nơi chép là: Nực cười hai chữ nhơn t́nh éo le! Nước cười th́ lại có nghĩa khác. Nực cười là đáng tức cười, nghĩ mà buồn cười cho cuộc đời ngang trái, cho cái ô trọc, khốn nạn của cuộc đời hay của con người. 

Nực cười ngụ một ư chua chát, khinh bỉ, c̣n gẫm cười th́ ngụ một ư suy tư và sâu sắc, thâm trầm hơn. Cười khinh bỉ là cái cười xem thường kẻ khác, hạ thấp giá trị của người khác trong ư nghĩ ḿnh. Nó đồng nghĩa với cười miệt thị, cười rẻ rúng, cười ngạo mạn. Đó là nghĩa đen của cười khinh bỉ. 

Dùng vào nghĩa bóng th́ người ta có chữ khác, cười vào mặt là rơ rệt nhất: “Mày mất dạy thế để người ta cười vào mặt bố mẹ mày à?”. Tương tự, c̣n gọi là cười vào mũi, cười thầm trong bụng! Dĩ nhiên những cái cười này không biểu lộ ra nét mặt hay tiếng cười mà chỉ có nghĩa là cười chê, coi thường nhân cách… 

Cười mỉa mai phát lộ hẳn ḥi qua sắc diện và âm thanh, nó ngụ ư gợi lên và làm cho người khác tức thêm hay hối hận thêm. Cười chế nhạo hay cười nhạo báng, cười châm biếm, chế giễu, cười trêu gan đều ngụ một ư cười cho người khác tức. 

Cười mũi là cái cười nhếch mũi lên một cái để tỏ ư khinh khi hay bất b́nh. Cười ruồi th́ cũng thế nhưng chỉ nhếch mép đủ để con ruồi đậu ở miệng bay đi thôi…, nó ngụ ư vui và nhẹ nhàng chứ không gay gắt như cười mũi. Cười nửa miệng hay cười đờ-mi ngụ ư vui thoang thoảng như cười ruồi. 

Cười gằn hay cười khan, cười khẩy là những những cái cười thâm độc, cười để dằn mặt người khác tỏ cho người khác biết ḿnh chẳng sợ ai và c̣n có vẻ rẻ rúng, xem thường người đối diện nữa. Cười nhạt hay cười lạt cũng cùng nghĩa ấy nhưng đượm vẻ lạnh lùng hơn và ghê gớm hơn. Cười tàn nhẫn là lối cười đi đôi với một hành động ác nhân, thất đức, hành động đó có thể là một cử chỉ giết người nữa. 

Cười lanh lảnh là lối cười ghê rợn, cười nghe lạnh xương sống, cống xương sườn, cười nghe dựng cả tóc gáy, cười nghe phát sởn gai ốc, phát nổi da gà. Thường thường, loại cười này chỉ dùng trong tiểu thuyết ma quỷ để gợi cho độc giả một cảm giác gây gấy, rùng rợn thêm lên. Cười khinh khỉnh vừa ngụ ư chê bai người khác vừa có vẻ kiêu căng, khiếm nhă. Cười x̣a là cái cười dễ dăi của một người không cố chấp, nghe rồi chỉ cười và bỏ ngoài tai tất cả những chuyện mà người khác kể cho. Cười phúc hậu hay cười nhân hậu là cái cười của người đạo đức đàng hoàng, nó c̣n có thể là cái cười của các bậc tu hành khả kính nữa. 

Cười nhă nhặn, cười xă giao là cái cười của người lịch sự dùng trong khi giao tiếp thường ngày với những người xung quanh ḿnh. Cùng một ư đó là cười ngoại giao, cười mua ḷng người khác, cười v́ lịch sự, cười bặt thiệp. Cười chính trị là nụ cười được đem ra sử dụng để chuẩn bị làm “áp phe” với một người nào. Đối với các tay chính khách, nụ cười của họ cũng bị ban cho là cười chính trị, v́ trên thực tế, giữa những tay chính trị già hàm th́ không có vấn đề cười v́ vui hay cười v́ thích thú tự nhiên bao giờ. 

Cười cầu tài là lối cười hề hề của mấy chú Ba bụng phệ tính tiền và làm toán cộng nhanh như gió. Các chú cười để bề ngoài ai cũng tưởng các chú dễ dăi, sao cũng được, nhưng bề trong, trong cái nồi nước lèo phề phệ của các chú, là cả một sự tính toán vĩ đại và chính xác vô cùng. Các chú thả con tép bắt con tôm đấy! 

Cười nịnh hay cười nịnh nọt, cười vuốt đuôi là cốt yếu làm vui ḷng những kẻ trên ḿnh để ḥng hưởng chút xôi rượu ǵ chăng. Cho nên, ta thấy cái cười cầu tài của mấy chú Ba cũng là một trong những cái cười nịnh mà là cười nịnh có toan tính có đường lối hẳn ḥi chứ không phải để nịnh suông như người Việt ḿnh. Đồng nghĩa với cười nịnh nhưng nhẹ nhàng hơn là cười mơn, cười mơn trớn, cười lấy ḷng người khác. Cười hùa và cười phụ họa đôi khi không có ư nịnh hót mà chỉ là một trong những cách biểu lộ sự đồng ư đồng t́nh trong một vấn đề ǵ đó. Đồng ư với ai một chuyện ǵ mà v́ thấy ngường ngượng khó nói người ta cũng dùng cái cười để trả lời cho những người xung quanh biết, đó là cái cười đồng ư, cười biểu đồng t́nh v.v… 

Cười vị tha, cười khoan dung là cái cười của kẻ đại nhân quân tử (quân tử thật chứ không phải quân tử tàu). Cười mộc mạc, cười hiền lành, cười dễ dăi cũng là cái cười của người hiền. Nó cũng bao gồm cái cười khiêm tốn, cười khiêm nhượng hay khiêm nhường nữa. Cười điềm nhiên, cười điềm tĩnh và cười b́nh thản biểu lộ sự mạnh mẽ của ư chí, không hốt hoảng trước một vấn đề nguy nan nào đó và vẫn tỉnh táo, sáng suốt để đối phó. Cười phớt tỉnh cũng là một cái cười của người rắn rỏi và can trường như người điềm nhiên. Cười tự tin hay cười lạc quan ngụ ư tin tưởng và hy vọng nhiều ở thành công. Trái lại là cười tự phụ, tự đắc, tự kiêu, tự măn. 

Cười tế nhị hay cười ư nhị là cái cười dùng để khởi đầu cho một giải quyết nào đó nhằm thanh toán vấn đề khó khăn. Cười bần tiện là cái cười mà kẻ tiểu nhân thường áp dụng để xin xỏ ai một cái ǵ. Nó đồng nghĩa với cái cười đê tiện, cười hèn hạ. Cười nhục nhă là một cái cười có tính chất gượng gạo, khổ sở, cay đắng trước một thất bại của ḿnh. 

Cười bí ẩn là cái cười khó hiểu, có ư muốn che giấu một điều ǵ không cho ai biết, nó đồng nghĩa với cười bí mật, cười hóc hiểm. Cười cứng cỏi là cái cười của người gan ĺ, nó có ư thách đố những người xung quanh và sẵn sàng phản công lại kẻ địch. V́ thế nên c̣n gọi là cười thách đố, cười dằn mặt, cười cứng rắn. Cười cương quyết cũng tỏ ư ấy nhưng dễ chịu hơn, nó muốn làm cho người khác phải lùi bước trước ḿnh và kính sợ ḿnh c̣n cười cứng cỏi ngụ một ư muốn… chơi tay đôi! 

Cười khiêu khích, cười khiêu chiến hay cười ngạo nghễ là tỏ ư muốn tấn công kẻ địch và xem thường năng lực chống trả của kẻ địch. Gặp người biết cắn răng chịu th́ họ chỉ cười để đáp lại, đó là cười nhịn nhục, cười chịu đựng, cười nén giận. Cười uất ức hay cười nghẹn ngào là biểu lộ sự bất lưc và căm giận của ḿnh trước một kẻ địch có thế lực mạnh hơn. 

Cười thú vị để biểu lộ một sự khoan khoái nhẹ nhàng và trầm tĩnh. Cười cởi mở là cái cười dễ chịu, không gút mắt, không bắt bẻ ai cả. Cười gian trá, cười xảo quyệt là cái cười của kẻ lưu manh đang dự tính qua mặt ai hay làm một điều ǵ ám muội. Cười nhu nhược hay cười mệt nhọc là cái cười của kẻ đă buông xuôi hai tay, mặc cho thời thế quay cuồng “để xem con tạo xoay vần ra sao”. 

Cười lấp liếm, cười giấu giếm, che đậy, cười che giấu là để cản mũi, tảng lờ, phớt phớt đi để người ta đừng ḍm ngó, nhỏ to ǵ đến công việc làm của ḿnh hết. Một đôi khi người ta c̣n sử dụng nó để vờ lấp liếm, vờ che đậy làm ra vẻ ta đây kín đáo, khiêm nhường, không muốn lộ cho ai biết chuyện ḿnh đang làm nhưng kỳ thực để thoảnỗi niềm tâm sự cố t́nh vờ che giấu bấy lâu nay; hoặc để người ta không lưu ư đến ḿnh nữa – người ta đă biết là ḿnh khiêm nhường rởm – dễ bề cho ḿnh ḍ xét lại chuyện người ta. V́ thế, cái cười của những người này c̣n là cười ḍ xét nữa. Che giấu chuyện ḿnh mà vẫn muốn tọc mạch, ḍm ngó chuyện người khác th́ hạng người này có một bộ mặt ngoài đạo đức, từ bi, khả kính c̣n bên trong th́ hư nát, đốn mạt và thối om cả lên… C̣n như vô t́nh làm mếch ḷng ai th́ lại cười vă lă, hay cười bă lă, cười đánh trống lấp, cười ngọt ngào để người ta đừng trách ḿnh và đừng khinh khi ḿnh. Lúc sắp nhờ vả hay đang nhờ vả người khác điều ǵ th́ gặp mặt đâu cũng tươi cười, cười tử tế, cười đàng hoàng lắm; nhờ vả xong rồi th́ lại làm ra vẻ nghiêm trang lạnh lùng trên bộ mặt trơ trẽn của ḿnh ngay (lúc đó mà cười th́ là cười trơ trẽn). 

Cười the thé là tiếng cười rùng rợn của mấy bà đồng, bà bóng, mấy bà mối lái, cho vay ăn lời cắt cổ mười thành mười hai, gặp điều ǵ đúng với dự tính của ḿnh nên thích thú quá không che giấu nổi. Cười như mấy bà mối lái đó là cười nghe mà phát ghét, cười không có nghệ thuật ǵ hết, cười giả dối rẻ tiền. 

Cười hoan hỉ là cái cười biểu lộ sự vui sướng nhẹ nhàng, không ồ ạt, đ́nh đám. Cười thông cảm để tỏ sự đồng ư với một người nào đó hay để chia sẻ sự băn khoăn, lo lắng hay vui vẻ của người đó. Cười buồn là cái cười của người biết chịu đựng trước thất bại, nó khác với buồn cười. Buồn cười hay tức cười, mắc cười, bắt tức cười đều ngụ ư như nhau. Đôi khi người ta cũng dùng chữ nói nghe mà nực cười hay b́nh dân hơn: thắc cười, nhột cười… Ngược lại với tức cười, buồn cười là nén cười, nhịn cười, nín cười, dồn ép để khỏi bật ra tiếng cười. Đè nén không nổi th́ bật lên cười, cười đến chết. 

Cười thương hại hay cười an ủi ngụ ư nhân đạo trong sạch. Cười dí dỏm hay cười hóm hỉnh ngụ ư chọc với mục đích cười cho vui thôi chứ không bao hàm ác ư. Cười bối rối là lối cười rất yếu, chỉ dùng để phải không nhẹ những lời trêu ghẹo của người ta. Cười ngờ vực hay cười đa nghi là tỏ ư không tin tưởng nơi lời nói hay việc làm của người khác. Người có gian ư th́ cười mà mắt láo liêng, mắt mở trao tráo, thồ lộ như hai con mắt cú, những kẻ ấy th́ phải coi chừng. Cười thoải mái hay cười nhẹ nhơm cho ta biết người cười không c̣n lo lắng nữa, nó đồng nghĩa với cười yên tâm. Cười làm lành cố nhiên là để cho người khác hết giận ḿnh, c̣n cười lănh đạm là tỏ vẻ không để ư ǵ đến điều người khác đang làm hay đang nói. 

Cười lén là cười mà không dám cho người khác thấy v́ ḿnh có ǵ trêu chọc người ta nhưng lại sợ người ta phải không. C̣n cười mát là ra vẻ giận dỗi hay để tỏ ư không ưa người đối diện. Người nào cười mà hai môi dính chặt lại, không dám đưa cái răng nào ra cả là cười mímhay c̣n gọi là cười đanh đá. Cười hởi dạ là để tỏ ư hài ḷng và khoan khoái về những điều mà người khác tán tụng, suy tôn ḿnh lên. 

Cười huề hay cười kh́ là những cái cười giảng ḥa, dễ dăi, để không ai giận ai nữa hết. Cười ngoan cố hay cười ĺ lợm là cái cười của kẻ đê hèn, làm cho người khác nổi sùng v́ cứ dai dẳng đuổi theo cầu xin một lợi lộc ǵ cho ḿnh. Cười nhẹ đôi khi c̣n để biểu lộ sự đồng ư với một người nào đó. 

Cười cười nói nói là cử chỉ của kẻ sắp giết người đến nơi mà không ai biết. Đó là cử chỉ của một nàng Hoạn Thư khi bắt gặp Kiều và Thúc Sinh: 


Cười cười nói nói ngọt ngào, 
Hỏi rằng “Chàng ở chốn nào lại chơi?”. 


Cười quái gở là lối cười kỳ dị làm cho người khác phải ghê sợ, tránh xa. C̣n gọi là cười quái dị, quái vật. Cười hách dịch hay cười hống hách là để tỏ ư như ta đây cha chúa mọi người. Lối cười này c̣n gọi là cười cao kỳ, cười như chủ nhân ông nữa. 

Cuối cùng là mỉm cười hay cười mỉm. Cười mỉm là lối cười lịch sự và đàng hoàng nhất. Tuy vậy, nghĩa của nó cũng rất rộng: ta có thể nói là đến hơn nửa tổng số những cái cười của thế gian này nằm trong mỉm cười – độc giả xem lại bài trên rồi nghiệm thử xem có đúng không – V́ là lối cười lịch sự nhất nên ai hay cười mỉm thường dễ mua ḷng người khác hơn là cười lên ồ ồ như sấm dậy. Nhà văn người Anh Chesterfield khuyên con trai: “Cha ước mong người ta thấy con luôn mỉm cười mà người ta đừng nghe con cười”. 


E. Tạm kết 

Cái cười trong ngôn ngữ Việt Nam có lẽ là một trong những lối diễn tả tư tưởng và phụ họa lời nói dồi dào nhất. V́ cái cười đi đôi với tiếng nói nên nó có một tính chất và một sự tiến triển hết sức linh động. Văn minh càng tiến bao nhiêu, càng đi lên cao bao nhiêu th́ nó càng lôi cuốn, mở rộng đường lối cho cái cười đi theo nó bấy nhiêu. Nước nào có một nền văn minh sâu xa, phong phú và kỳ cựu th́ lỗi diễn tả, hay đúng hơn, các chữ dùng để diễn tả cái cười càng dồi dào và rộng răi hơn lên. 

Bao giờ mới tiến tới giới hạn (Tendre vers la limite) của cái cười? Hay cái cười nó không có giới hạn, nó vô hạn (infini)? Có thể lắm; v́ ngày nào nền văn minh trên trái đất này bị tiêu diệt đi, bị hủy diệt hoàn toàn đi th́ chừng đó mới không c̣n tiếng cười nữa. 

Nhưng hiện tại, văn minh con người – nhất là con người Việt Nam – đang trên đường đi tới, đi tới một cực vô hạn (vô cực, nếu nói theo tinh thần của khoa học toán, sciences mathématiques) th́ cái cười tự nó cũng vậy, v́ nó đuổi theo, hay bị lôi cuốn theo do nền văn minh mà ra. Nói theo chữ của ông Huỳnh Phan Anh th́ cái cười trong thực tại, đang làm một cuộc hành tŕnh vào vô hạn (voyager à l’infini), và v́ vô hạn là một điểm (un point) hay đúng hơn, một vị trí (une position) không xác định được nên hiện tại, không ai định được giới hạn cuối cùng của cái cười. 

Cho nên dù đă suy nghĩ nhiều và đă trải cạn ra đây, tác giả vẫn biết chắc là không thể nào một ḿnh ḿnh đạt đến vị trí tuyệt đối của cái cười được. Hay nói một cách khác, giản dị hơn, riêng chỉ cá nhân của tác giả th́ không thể nào lục t́m cho ra gần hết – gần hết chứ không phải là hết – những tiếng cười ấy trong ngôn từ Việt Nam. V́ thế, khi bài này dừng lại ở dây th́ nó chỉ có nghĩa là tạm dừng mà thôi, nó c̣n chờ đợi một sự đóng góp, một sự phụ giúp sâu xa của độc giả để ngơ hầu nó có thể tiến đến một vị trí gần tuyệt đối của bề rộng hoặc bề sâu của cái cười trong tự điển truyền khẩu Việt Nam. 

Mặc khải (hay khải thị – révéler) là một nghệ thuật (un art) cười là một nghệ thuật khác; như vậy, mặc khải một cái cười, một lối cười là cả một vấn đề đặt một nghệ thuật trong một nghệ thuật khác. Và ta thấy, nghệ thuật mà không có quần chúng, không có khán giả để quan sát, để phê b́nh, để đóng góp tô điểm th́ bấy giờ, nghệ thuật chỉ là một cái thùng rác tanh tưởi hay là một tờ giấy lộn, một cảnh tượng què quặt đui dại và phi nghệ thuật mà thôi. 

Cái cười chính nó là như thế… 

*


Tạm dừng bài này ở đây, tôi xin phép các độc giả để được hân hạnh gửi lời cám ơn của tôi đến nhà văn Lê Văn Siêu, người đă gợi ư cho tôi viết bài này qua một tiểu luận đặc sắc của ông mà chắc các độc giả cũng đă biết, đó là “Nói nghĩa là ǵ?”. 


[1]Lê Văn Siêu, “Nói nghĩa là ǵ”, trang 12, ḍng 11-12, đặc san Văn, tập 1, 1967.
[2]Xem Vũ Đ́nh Lưu, 
“Tinh thần hài hước trong văn nghệ”, trang 49-97, đặc san Văn, tập 1.

 

Nguồn: Tạp chí Văn, Nghiên cứu và Phê b́nh văn học, năm thứ nhất, đệ tam tam cá nguyệt 1967, tập 3, trích từ trang 53 đến trang 73.