Thơ Hoàng Xuân Thảo
CHÙM THƠ THÁNG 4
I.ĐỊÊP KHÚC THÁNG TƯ
Tháng Tư! Tháng Tư lại trở về
Với tiếng ve sầu kêu ve ve...
Vết thương năm cũ chưa lành lặn
Lại tấy mủ lên, đau tái tê.
Tháng Tư! Tới chết không quên được
Dâu bể một cơn chợt đổi đời
Văn minh đã thua loài man rợ (*)
Thời kỳ “đồ đểu” đã lên ngôi.
Tháng Tư! Chiêng trống khua inh ỏi:
“Sài Gòn giải phóng kể từ đây”
Mà sao ai nấy đều kinh hãi
Nhìn cộng quân như lũ củi hùi?
Tháng Tư! Nón cối nhe răng dọa
Lộp bộp dép râu nện sỗ sàng
Hòn ngọc Viễn đông đang ngời sáng
Đổi sang ủ rũ một màu tang.
Tháng Tư! Sài Gòn đau như hoạn
Thương xót đàn con chạy tứ tung
Ngay cả cột đèn mà đi được
Thì cũng khuyên nhau vượt biển đông.
Tháng Tư! Tràn dâng niềm uất hận
Mạt tướng kia chưa đánh đã hàng
“Trí thức” cháy nhà ra mặt chuột
Trở cờ đón chủ mới lăng xăng.
Tháng Tư! Hãy cùng nhau tưởng niệm
Anh hùng, hào kiệt đã hi sinh
Từng lập bao chiến công hiển hách
Trao ta bó đuốc sử quang vinh.
Tháng Tư! Hãy giơ cao bó đuốc
Sáng ngời ngời át cả muôn sao
Cho tới lúc thân tàn, sức kiệt
Lại trao tay thế hệ mai sau
Tháng Tư! Hãy đứng lên khảng khái
Đừng ngồi than thở phận lưu vong
Xưa ta đã một thời múa kiếm
Nay tới thời múa bút xung phong.
Múa bút lên! Lời lời dao chém
Bọn Việt gian: vạch mặt thẳng thừng
Bọn Bành trướng: âm mưu lột tẩy
Rồi ta sẽ thắng trận sau cùng.
Dù Việt Cộng sống thêm ngắc ngoải
Một hai chục năm có nghiã gì
So với chiều dài của lịch sử
Bốn ngàn năm văn hiến uy nghi.
Múa bút lên! Vững niềm tin tưởng
Cờ Búa Liềm sẽ rách tả tơi
Cờ Chính Nghĩa tung bay khắp nước
Hòn Ngọc Viễn Đông lại sáng ngời.
*Lời của cán bộ Dương Thu Hương khi theo Cộng quân vào Sài Gòn
Nỗi buồn Tháng 4 – Tranh Nguyễn Sơn
II. NGƯỜI LÍNH CUỐI CÙNG
Cảm đề tấm hình “Người Lính Cuối Cùng ”của Nguyễn Đạt
Không! Quyết không giã từ võ khí !
Cộng quân dù lớp lớp bao v Cộng quân dù lớp lớp bao vây
Tướng tá dù ùn ùn bỏ chạy
Gầm gừ ghìm hai súng hai tay
Không! Quyết không giã từ võ khí !
Sài Gòn dù lửa khói tan hoang
Chiến hữu dù tan hàng tứ tán
Vẫn ngẩng đầu cất bước hiên ngang.
Đêm nao nhớ lại nghe truyền hịch
Theo việc đao cung, xếp bút nghiên
Anh ngạo nghễ lên đường nhập ngũ
Cánh chim bằng thoả chí bình sinh.
Anh đánh đẹp thay trận cuối cùng!
Vòng đai Xuân Lộc vững như đồng
Lệnh như sét đánh kêu buông súng
Đồng đội ôm nhau lệ tủi hờn.
Ngoài chiến tuyến màn trời, chiếu đất
Đường trường chinh rong ruổi, xông pha
Anh/ Súng không rời nhau nửa bước
Tình càng nồng mặn lúc sa cơ
Tháng Tư lúc nhúc quân cờ đỏ
Lưả bốc, đạn bay, cảnh hãi hùng
Ghìm súng thản nhiên đi giữa phố
Với tôi, anh đúng một ANH HÙNG.
Này hỡi anh! Người lính cuối cùng
Vẫn đi trong điệu bước kiêu hùng
Thế nước dù gặp cơn mạt vận
Còn ngời sử chiếu tấm lòng son
Xin cám ơn người lính cuối cùng
Nêu gương khí phách giống Tiên Rồng
Cho tôi tin tưởng rồi mai mốt
Cờ Tự Do phần phật cố hương
III. ÁO TÍM THÁNG TƯ
Xót xa lá cỏ vương mùi tóc
Tà áo bay về, nhớ suốt đêm
Đinh Hùng
Đi ngang trường em cũ
Vào đúng lúc tan trường
Áo ai bay trong gió
Lòng vu vơ buồn vương.
Thơ thẩn dưới hàng me
Lối cũ đón em về
Mất dấu cơn lửa loạn
Không một lời từ ly.
Hồn anh thường tấy mủ
Mỗi năm cuối tháng tư
Phượng trường rưng rưng đỏ
Bóng chim vẫn mịt mù…
Anh: ra tù Cải tạo
Đời tàn, rách tả tơi
Sống cùng loài sâu bọ
Đâu còn thân phận người?
Được tin em: đất khách
Đã có người đón đưa
Vòng tay anh còn ấm
Hơi hướm người tình xưa.
Hỡi người em áo tím
Chừ bên nớ bình minh
Bên ni chiều tắt lịm
Mãi ôm một bóng hình...
Người em áo tím – Tranh Nguyễn Sơn
IV. THÁNG TƯ ĐỔI ĐỜI
Lão đang làm công chức
“ Giải phóng” bắt đi đầy
Vùng kinh tế tự túc
Cùng hai đứa cháu thơ.
Con trai: một “ cải tạo”
Mút muà chẳng ngày về
Một: nghiã vụ quân sự
Bỏ xác Kam-pu-chia.
Con dâu vội “ đổi đời”
Bỏ con, theo cán bộ
Lão than: “ Tội nghiệp nó
Cũng vì cơm áo thôi!”
Giữa đồng hoang, cỏ cháy
Trơ trụi một thân già
Sớm đào rồi tối cuốc
Ê ẩm hai bàn tay
Lòng nhủ lòng “ hồ hởi”
Trời thương họa tình may
Nuôi được hai cháu nội
Rau cháo cho qua ngày.
Ngờ đâu trời độc địa
Mìn nổ, mắt choá loà
Đành chống gậy, giắt cháu
Mò về khu phố xưa.
Nước mất, nhà cũng tan
Lão loanh quanh Bến Thành
Xin người qua, kẻ lại
Bố thí chút từ tâm
Đảng muốn đẹp thành phố
Suốt ngày cứ đuổi sua
Măc lão cùng lũ nhỏ
Sống cầu bất, cầu bơ...
Hỡi ôi! Thiên đường đỏ!
Lão chép miệng thở dài:
“ Sống dở, chết cũng dở
Được Địa ngục còn may!
Chúng huênh hoang: Giải phóng
Nói lái thật tuyệt trần ”...
Lão làm bộ nhăn nhó
Xoa xoa dưới đũng quần...
Thấy tôi lộ thương cảm
Mắt loà ngó trước sau
Nhoè nhoẹt dòng lệ cạn
Nắm tay tôi, thì thào:
“Cậu ơi! Nếu không có
Chuyện Tháng Tư đổi đời
Thì lão đâu khốn khổ
Tới ra nông nỗi này!
Ôi! Tiên sư chúng nó
Nói dối như cuội thôi
Nếu không vì sắp nhỏ
Lão chết quách cho rồi”
Tôi muốn an ủi lão:
(Hay tự an ủi tôi?)
Nước qua cơn bĩ cực
Sẽ tới hồi thái lai.
Mặt lão đang ủ rũ
Bỗng nở nụ cười tươi
Ngước nhìn trời, hớn hở
Tơ tưởng một ngày mai...
V. TRÚNG PHONG
Từ phòng mạch lết ra
Một lão trông buồn thảm
Tay chống trên cặp nạng
Bước chân duỗi, chân co.
Lão đứng hỏi thăm đường
Ngọng nghịu chẳng ai hiểu
Miệng cười trông như mếu
Ánh mắt dại mông lung.
Ông thầy vừa cho hay
Bệnh trúng phong, đột qụy
Phương thuốc thần hiệu nhất
Là vận động, phục hồi.
Lão phải tập đi đứng
Tập cất nhắc chân, tay
Tập cong môi, uốn lưỡi
Như đứa trẻ lên hai.
Tội nghiệp cho lão quá!
Lần thứ hai vào đời
Bạc đầu còn lóng cóng
Ngây dại trước mọi người.
Hỡi ôi! Người tị nạn
Khác gì bị trúng phong
Thêm thương nhà, nhớ nước
Lòng nát bấy như tương!
Nguyễn Sơn – Nỗi Buồn Tháng Tư
VI. VỊÊT NAM NƯỚC TÔI NHƯ THẾ ĐẤY
Việt Nam nước tôi như thế đấy
Hỏi vì sao? Thật khó trả lời
Điều nghịch lý hoá thành chân lý
Coi đương nhiên những chuyện ngược đời.
Nước tôi bốn ngàn năm dựng nước
Bao tiền nhân đổ máu hi sinh
Nay bỗng có “hậu sinh khả ố”
“ Cha già dân tộc” nhận quàng xiên.
Nước tôi có “Đỉnh cao trí tuệ”
Suy tôn chủ nghĩa Mác lỗi thời
“Mâu thuẫn là nguyên do phát triển”
Lại chủ trương một đảng mà thôi.
Bọn chúng nó mồm loa, mép giải
Giới công nông: lãnh đạo tối cao?
Thợ thuyền lo chạy ăn từng bữa
Nông dân : bị đất chiếm, nhà cào.
Chúng lột xác thành tư bản đỏ
Lên xe xuống ngựa vẻ nghênh ngang
Miệng thì nói chỉ là đầy tớ
Của nhân dân đang cảnh lầm
than.
Người người phải còng lưng nộp thuế
Cả một đời khổ cực triền miên
Khi cửa quan có việc lui tới
Phải biết làm “ thủ tục đầu tiên”.
Chúng khoác lác tự do tôn giáo
Công an: sư giả khoác cà-sa
Tượng Phật vào chùa đâu chẳng thấy?
“Bác Hồ” ngồi tót sỗ sàng thôi!
Chúng còn ra mặt đạo đức giả:
Tham nhũng diệt trừ tận thâm căn
Chỉ đập nhì nhằng vài muỗi tép
Bí thư chẳng
chạm tới lông chân.
Nhà thương ba bốn người một chiếu
Trường học thiếu lớp, thiếu thầy cô
Vẫn thi nhau xây đài tưởng niệm
Lãnh tụ mặt dầy đáng trát tro.
Nước tôi cả trăm ngàn tiến sĩ
Giáo sư ra ngõ gặp cả bầy
Mà dân vẫn nghèo nàn, đói rách
Nước thì lạc hậu chẳng bằng ai!
Nếu có kẻ hãy còn liêm sỉ
Muốn sống không nô lệ ngọai bang
Chúng gán ngay, “ Thế lực thù địch”
Và tống liền vào trại “ Tập trung”.
Việt Nam nước tôi như thế đấy
Biết bao điều nghịch lý khôn cùng
Khi nghĩ tới cười ra nước mắt
Ngậm ngùi trước bao cảnh tang thương!
Hãy bảo nhau thắp một ngọn nến
Hơn ngồi trong bóng tối than van
Hãy lên tiếng đồng thanh tố cáo
Bọn Hán nô bán nước buôn dân.
Vận nước đang trong cơn bĩ cực
Dù vài chục năm nghiã gì đâu
Cộng sản tất có ngày sụp đổ
Cờ Tự Do lại sẽ bay cao.
Tranh Nguyễn Sơn – Vòng xoáy cuộc đời
Trịnh Cung: Những cuộc hoá thân Tháng Tư
VII.
AI NHỚ NGÀN
NĂM MỘT NỖI MỪNG AI NHỚ NGÀN
NĂM MỘT NỖI BUỒN
THƠ CỦA DU TỬ
LÊ (?) * THƠ HỌA CỦA
HOÀNG XUÂN THẢO
(viết
về 30.4.1975) (viết
về cùng ngày 30.4.1975)
Tháng tư đă đến rừng chưa thức Tháng
tư sập xuống, đêm thao thức
Mưa vẫn chờ tôi ở cuối đường Vận
nước nổi trôi tới cuối
đường
Có môi, không nói lời ly biệt Đàn
chim vỡ tổ bay biền biệt
Và mắt chưa buồn như mộ bia Và
mắt u buồn hơn mộ bia.
Tháng tư nao nức chiều quên tắt Tháng
tư hấp hối theo chiều tắt
Chim bảo cây cành hăy lắng nghe Loa bảo dân
rằng hãy lắng nghe
Bước chân giải phóng từng khu phố Nối
vòng tay lớn, ra đường phố
Và tiếng chân người như suối reo Chào
đón quân về, cất tiếng reo.
Tháng tư khao khát, ngày vô tận Tháng tư
uất hận đời vô tận
Tôi với người riêng một góc trời Tôi
với người đâu đội một trời
Làm sao ngựi biết trời đang sáng Đêm
buồn ảm đạm, trời không sáng
Và cánh chim nào sẽ bỏ tôi Tù
ngục, gông cùm sẽ đợi tôi.
Tháng tư sum họp người đâu biết Tháng
tư chia cách người đâu biết
Cảnh tượng hồn tôi: một bóng cờ Kinh
hãi hồn tôi: đỏ bóng cờ
Với bao chiêng, trống, bao cờ xí Sao
vàng, liềm búa, bao cờ xí
Tôi đón anh về tự mỗi nơi Tôi
ngán người về khắp mọi nơi.
Tháng tư binh mă về ngang phố Tháng
tư nón cối về đầy phố
Đôi mắt nh́n theo một nỗi mừng Dân
chúng thờ ơ chẳng chút mừng
Đêm ai tóc phủ mềm da lụa Dép
râu giẵm nát đời nhung lụa
Tôi với người chung một bóng cờ Tôi với
người riêng một lá cờ.
Tháng tư nắng ngọt hoa công chúa Tháng tư
nắng úa hoa công chúa
Riêng đoá hoàng lan trong mắt tôi Đầy cọng
cỏ gai trong mắt tôi
Làm sao anh biết khi xa bạn Sao
người bắt bớ bao bè bạn
Tôi cũng như người: Một nỗi vui Lếu
láo: toàn dân một nỗi vui?
Tháng tư chăn gối nồng son, phấn Tháng
tư chăn gối hờn son phấn
Đêm với ngày trong một tấm gương Đâu
bóng người chung một tấm gương
Thịt, xương đă trả hờn sông, núi Tập
trung “ cải tạo” miền rừng núi
Tôi với người, ai mang vết thương? Cả
xác lẫn hồn toạc vết thương!
Tháng tư rồi sẽ ngàn năm nhớ Tháng
tư rồi sẽ đời đời
nhớ
Rừng sẽ v́ tôi nức nở hoài Em
sẽ vì tôi nức nở hoài
Mắt ai ngu sẽ như bia mộ Mắt
buồn ảm đạm hơn bia mộ
Ngựa có về qua cũng thiếu đôi Biết
tới bao giờ sống lứa đôi?
Tháng tư nhắc nhở ngàn năm nữa! Tháng
tư nhắc nhở ngàn năm nữa
Cảnh tượng hồn tôi những miếu đền Hận
nợ non sông chưả đáp đền
Trống, chiêng, cờ, xí như cơn mộng Nổi
trôi vận nước như cơn mộng
Mưa đă chờ tôị Mưa...đă ........mưa Mưa
ngập lòng hay lòng đã mưa?
*** ***
Mai kia sống với vầng sao ấy Mai
mốt sống cùng vầng sao ấy
Người có c̣n thương một bóng ai Gieo bao
sầu khổ, cảnh bi ai
Góc phố c̣n treo ngời lănh tụ Góc
phố còn treo hình lãnh tụ
Ai nhớ ngàn năm một bóng ai? Ai mãi hận
thù một bóng ai?
*Bài thơ này thoạt đầu được nói là của Du Tử Lê, sau có người lên tiếng cải chính
rằng không phải tuy nhiên giọng điệu, lời lẽ và hơi thơ thì rất giống của Du Tử Lê.
Du Tử Lê đã được các văn nô Việt Cộng tổ chức cho ra mắt một tập thơ tại Việt Nam.
Tháng Tư Buồn – Tranh Nguyễn Sơn