Tìm Kiếm Bài Đã Đăng
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2019
|
Hình bìa tác phẩm "Y Sĩ Tiền Tuyến" |
|
Cuốn Y Sĩ Tiền Tuyến được viết thành một bút ký dài với mục đích tiên khởi là để dự thi Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc do nền Đệ Nhị Cộng Hòa tái lập vào năm 1969. Giải thưởng nầy, được thiết lập dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa, bị gián đoạn sau cuộc chính biến năm 1963.
Tôi còn nhớ mình hăm hở viết, được trang nào là đưa cho người hạ sĩ quan thư ký đánh máy. Lúc ấy tôi đang là Đại Đội Trưởng Đại Đội Chỉ Huy kiêm y sĩ gây mê của bệnh viện Đỗ Vinh của Sư Đoàn Dù. Tôi hăm hở viết vì điều kiện dự thi không bắt buộc phải là một tác phẩm đã xuất bản và nếu hoàn tất trong vòng 6 tháng thì kịp thời hạn chót để nộp tác phẩm dự thi. Tôi hăm hở viết vì trong thời gian đang thụ huấn chuyên môn gây mê tại Tổng Y Viện Cộng Hòa tôi được tin bài bút ký Đường Ra Bến Hải của tôi được chấm giải nhất trong cuộc thi bút ký chiến đấu do báo Tiền Phong của Cục Tâm Lý Chiến tổ chức. Khi đi lãnh giải thưởng 10.000 đồng tôi mới biết chánh chủ khảo cuộc thi nầy là nhà văn kiêm nhà báo Nguyễn Đạt Thịnh. Tôi nghĩ chính giải thưởng nầy là động cơ thôi thúc tôi hoàn tất cuốn Y Sĩ Tiền Tuyến.
Đoạn bút ký Đường Ra Bến Hải tôi viết đang lúc là Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 3 Dù. Tiểu Đoàn Trưởng lúc đó là Thiếu Tá Trần Quốc Lịch và Tiểu Đoàn Phó là Đại Úy nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh. Tôi còn nhớ đó là năm đầu tiên tôi ăn Tết xa nhà, mặc dù nhà không xa lắm. Bình Chánh chỉ cách Thủ Đô Sàigòn chỉ vài giờ xe. Tiểu Đoàn 3 Dù có nhiệm vụ đóng ven đô làm vòng đai an ninh và yểm trợ bẻ gãy chiến dịch lấy nông thôn bao vây thành thị của địch. Cho nên Tiểu Đoàn 3 Dù chỉ có những cuộc hành quân cấp Đại Đội phối hợp với các cánh quân bộ binh Mỹ có trực thăng võ trang yểm trợ.Tôi thì cứ nơi nào đặt được cơ sở hành chánh địa phương thì tôi đến làm dân sự vụ: khám bệnh, phát thuốc vào buổi sáng. Phần còn lại của ngày tôi rảnh rỗi.
Một hôm mở đài phát thanh quân đội tôi nghe Cục tâm Lý Chiến mở cuộc thi bút ký chiến đấu.Tôi tự nhủ sao mình không viết một bài gởi dự thi. Vốn sống mình có. Biết đâu trúng giải. Trước đó tôi đã có viết một bài đăng ở đặc san Mũ Đỏ với tựa đề Thử Lửa kể lại trận đánh đầu tiên tôi tham dự với Tiểu Đoàn 6 Dù ở Bồng Sơn. Ban đầu tính gửi bút ký Thử Lửa đi dự thi, nhưng sau đó nghĩ lại tôi thấy nên viết một bài mới thì hay hơn. Và tôi chọn viết lại cuộc hành quân ờ vùng I cũng với Tiểu Đoàn 6 Dù, một cuộc hành quân không chạm địch lớn nhưng rất kham khổ.
Thế là tôi viết bút ký Đường Ra Bến Hải. Tôi ít viết ban ngày, chờ đêm yên tĩnh mới viết. Sợ ánh đèn dầu làm lộ vị trí đóng quân tôi cho lấy poncho bao kín cái bàn viết và ghế ngồi dã chiến do một y tá khéo tay đóng cho. Nhờ trời đêm mát thoáng tôi không bị nóng và ngộp thở. Tôi viết chừng một tuần là xong bài bút ký. Chép lại xong tôi cho vào phong bì, giao cho một y tá khi theo xe về hậu cứ lấy thuốc, ra bưu điện mua tem dán vào và gởi về tòa soạn báo Tiền Phong.
Sau khi rời Tiểu Đoàn 3 Dù, về lại bệnh xá Đỗ Vinh, tôi được gởi đi thụ huấn khóa gây mê tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Thời gian thụ huấn là 12 tháng. Bệnh xá Đỗ Vinh sẽ được nâng cấp lên thành bệnh viện 100 giường. Bệnh viện sẽ có 2 y sĩ giải phẫu và một y sĩ gây mê. Trong tương lai các trường hợp giải phẫu lớn cho quân nhân Dù các cấp sẽ không gửi đi Tổng Y Viện Cộng Hòa nữa mà sẽ được thực hiện tại bệnh viện Đỗ Vinh. Tôi còn nhớ vị sĩ quan cấp tá đầu tiên được giải phẫu tại Đỗ Vinh do tôi gây mê lại là vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 cũ của tôi: Thiếu Tá Nguyễn Văn Minh. Ông bị gãy xương ống chân khi nhảy bồi dưỡng.
Mải lo thực tập để trở thành y sĩ gây mê tôi quên bẵng chuyện mình có gửi một bút ký đi dự thi. Cho đến một hôm vị y sĩ huấn luyện viên kiếm tôi tươi cười báo tin:
- Tôi vừa nghe đài phát thanh loan tin anh được giải nhất cuộc thi gì đó của Cục Tâm Lý Chiến. Xin chúc mừng anh.
Tôi bắt tay cám ơn ông báo tin vui, lòng rất phấn khởi. Tôi hãnh diện thầm: thì ra mình viết văn cũng không tệ. Lâu nay tôi vẫn nghĩ mình chỉ là một người biết làm thơ. Tôi được tin cuốn Y Sĩ TiềnTuyến được giải thưởng một tháng trước khi Bộ Văn Hóa tuyên bố kết quả. Dạo đó, buổi chiều sau khi đi làm về tôi thay đồ xi vin ra quán Pagode ngồi uống nước với nhà văn Nguyễn Đình Toàn. Khi gửi bản thảo Y Sĩ Tiền Tuyến đi dự thi tôi không nói với một ai. Có lẽ sợ tiết lộ ra lỡ không trúng giải thì quê!
Tôi còn nhớ hôm đó ra quán Pagode, vừa thấy tôi Nguyễn Đình Toàn vẫy tay lia lịa kêu tôi tới bàn anh:
- Này, toa trúng giải văn học nghệ thuật rồi đấy!
Tôi mở mắt to:
- Thật không ?
- Thật. Nguyễn Mạnh Côn, trong ban giám khảo nói thì làm sao sai được. Moa có hỏi vì sao giả chọn tác phẩm của toa thì giả nói vì nó “ authentique.”
Tôi không bao giờ quên cái cảm giác lâng lâng khó tả trước tin mình được giải thưởng cao quí nhất lúc bây giờ. Một tay viết tài tử với một tác phẩm còn dưới dạng bản thảo, đánh máy lèm nhèm, đã được các ông trong ban giám khảo chịu khó đọc và cho giải. Hôm tôi vào Dinh Độc Lập lãnh giải do chính tay Tổng Thống Thiệu trao, tôi mặc quân phục đại lễ trắng, đội mũ đỏ. Tôi muốn cho tất cả mọi người có mặt hôm đó thấy rằng, hiểu rằng xương máu, mồ hôi của quân nhân binh chủng Dù đã tạo nên tác phẩm này. Thi sĩ Vũ Hoàng Chương, ở trong ban giám khảo, đến tặng tôi 2 câu thơ viết trên lụa mà tôi còn nhớ:
“Y Sĩ ý hỵ mà hay !
Xông pha Tiền Tuyến quản gì gió sương.”
Với một trăm ngàn tiền thưởng tôi tổ chức một đêm họp mặt ở hội quán Hoa Dù để ăn mừng. Sau đó tôi chưa biết chọn nhà xuất bản nào để in thành sách thì nhờ bác sĩ Nguyễn Đức Liên vị y sĩ Dù đàn anh mà tôi đến thay thế ở Tiểu Đoàn 3 Dù giới thiệu tôi với nhà xuất bản Đường Sáng, một nhà xuất bản rất uy tín thời bây giờ.
Anh Nho, giám đốc nhà xuất bản nhận lời in. Tôi được thêm một món tiền về bản quyền khá hậu hỉnh của anh Nho. Anh Nho đích thân chọn hình bìa, phụ bản, kiếm người viết lời thiệu. Anh Nho cũng chưa thỏa mãn lời viết giới thiệu của hai nhà văn Nguyễn Đình Toàn và Nguyễn Đạt Thịnh ở trang bìa sau. Anh muốn nhờ một nhà văn ở trong ban giám khảo viết giới thiệu. Chính anh Nho đã đi nhờ nhà văn Mai Thảo viết. Trong năm ngàn cuốn in đợt đầu anh Nho chia ra một nửa đầu do Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Đạt Thịnh viết, nửa sau do Mai Thảo viết. Cuốn Y Sĩ Tiền Tuyến được tái bản ở hải ngoại nằm ở nửa đầu nên độc giả không đọc được lời giới thiệu của Mai Thảo.
Tôi chỉ còn nhớ mấy dòng đầu lời giới thiệu của Mai Thảo: “Hạnh phúc và may mắn của một nhà văn mới lên đường, như trường hợp Trang Châu, là đi thẳng, đi ngay vào thực tế lớn. Những thực tế nhỏ không chứng minh được gì hết. Thực tế lớn bây giờ là tuyến đầu, là mặt trận. Trang Châu đã có mặt ở đó...”
Ra đến hải ngoại tôi mới biết tác phẩm của mình đã từng được dùng làm phần thưởng cuối năm ở một số các trường trung học và là đề tài thi ở Đại Học Văn Khoa Sài Gòn.
Bốn mươi năm sau đọc lại tác phẩm mình, tôi có cảm giác là lạ mình như vừa độc giả vừa diễn giả. Vẫn cảm thấy bồi hồi, vẫn nhìn thấy cảnh trí, sự việc sống động diễn ra. Rồi nhận thấy có những điều chưa được ghi lại suốt thời gian tôi phục vụ ở Tiểu Đoàn Quân Y Dù, trước và sau khi viết cuốn Y Sĩ Tiền Tuyến. Viết phần nầy coi như rót cho đầy ly, gói cho tròn những kỷ niệm. Tôi không nhớ trong phần Lời Nhà Xuất Bản nội dung những câu bị kiểm duyệt cũng như trong chương Thử Lửa. Chỉ nhớ đó là mấy câu hò vào ban đêm của một nữ cán bộ cộng sản.
Khi ra hải ngoại, vào năm 1977, tôi có nhắn tin trên báo Việt Nam Hải Ngoại của anh Đinh Thạch Bích có ai giữ cuốn Y Sĩ Tiền Tuyến tôi xin mua lại. Ngay sau đó tôi được một nhà xuất bản ở Cali liên lạc xin tái bản, họ còn yêu cầu tôi viết lại dùm hai trang vì khi họ qua Ba Lê làm phô-tô-cô-pi cuốn sách họ bỏ sót hai trang. May mắn trí nhớ tôi lúc đó còn tốt nên tôi viết lại hai trang ấy khá dễ dàng. Quí vị nào còn giữ cuốn Y Sĩ Tiền Tuyến tái bản ở hải ngoại sẽ thấy ở chương Ven Đô hai trang viết lại được viết bằng chữ nghiêng.
Đọc lại tác phẩm mình tôi thấy có bổn phận phải viết về hai người lính Quân Y Dù, một hạ sĩ quan và một sĩ quan, cả hai đều tử trận trong cuộc hành quân chót. Tôi còn nhớ hôm tôi gặp Thiếu Tá Y Sĩ Trưởng Hoàng Cơ Lân để xin cho hạ sĩ nhất Huỳnh Kỷ làm Y Tá Trưởng Trạm Cứu Thương Tiểu Đoàn 6 Dù. Bác sĩ Lân nhìn tôi ngần ngại:
- Anh có chắc Huỳnh Kỷ chỉ huy được Y Thuận và Khiên mù không ? Đồng cấp bậc nhưng hai tay này thâm niên hơn Huỳnh Kỷ.
Tôi trình bày lý do yêu cầu của tôi:
- Có thể Y Thuận và Khiên mù không vui, nhưng tôi tin Huỳnh Kỷ sẽ là một Y Tá Trưởng xuất sắc. Nó chuyên môn giỏi, can đảm và được đám y tá trẻ nể phục.
Với thời gian sự chọn lựa của tôi đựợc chứng minh là đúng. Chỉ mấy năm sau Huỳnh Kỷ được chọn là chiến sĩ xuất sắc nhất ngành Quân Y toàn quốc. Anh được cùng các chiến sĩ xuất sắc khác vào Dinh Độc Lập bắt tay Tổng Thống Thiệu và sau đó được đi bồi dưỡng hai tuần ở Đài Loan.
Sư Đoàn Dù đang chuẩn bị một cuộc hành quân lớn ở vùng I. Tôi nghe loáng thoáng là hành quân qua Hạ Lào.Tôi gặp Huỳnh Kỷ ở bệnh viện Đỗ Vinh.Anh đưa tay khoe cái đồng hồ đeo tay mới, được Tổng Thống Thiệu tặng hôm vào Dinh Độc Lập. Huỳnh Kỷ nói với tôi:
-Trung Tá Y Sĩ Trưởng (bác sĩ Bùi Thiều) nói với em sau cuộc hành quân này ông sẽ cho em rời Dù về làm việc ở Quân Y Viện Qui Nhơn, quê của em. Em đi hành quân chuyến này là chuyến chót. Nhìn mặt Huỳnh Kỷ tôi bỗng giật mình. Mặt anh tái mét,không có thần sắc.Tôi lo lắng hỏi:
- Cậu bệnh hay sao mà mặt mày tái xanh vậy.
Huỳnh Kỷ cười vô tư:
- Em có sao đâu, bác sĩ.
Huỳnh Kỷ đã đi hành quân lần chót.Và đi không bao giờ trở về! Khi cánh quân Dù đầu tiên được trực thăng vận xuống một ngọn đồi, địch, như đoán trước được địa điểm đổ quân, đã pháo tan tành ngọn đồi. Nghe nói hơn phân nửa binh sĩ Dù của đợt đổ quân nầy tử thương, trong đó có Huỳnh Kỷ. Định mệnh thật khắt khe: sao nó cứ chờ chực ở ngã rẽ của đời người.
Trạm Cứu Thương duy nhất của một Tiểu Đoàn Dù có một Y Tá Trưởng và một Y Sĩ Trưởng tử trận là Tiểu Đoàn 6 Dù. Y Sĩ Trưởng Nghiêm Sỹ Tuấn tử trận ở Khe Sanh một năm trước Y Tá Trưởng Huỳnh Kỷ. Tuấn là y sĩ Dù duy nhất bị thương hai lần, một lần ở Dakto, một lần ở Cao Lãnh. Ở Cao Lãnh anh bi một viên đạn lạc ghim sâu vào đầu gối. Lối bị thương ’’lảng nhách’’ này làm Tuấn bực mình hơn là hãnh diện.
Anh được gửi về Tổng Y Viện Cộng Hòa điều trị và tập vật lý trị liệu sau đó. Lần Tuấn bị thương ở Cao Lãnh tôi được chỉ định đi thay thế anh vì Tiểu Đoàn 6 Dù là đơn vị cũ của tôi. Khi trở về lại bệnh viện Đỗ Vinh, tôi nghe nói Tuấn sau khi bình phục sẽ được theo học khóa giải phẫu một năm. Thấy Tuấn nhỏ con tôi nói đùa với bác sĩ Vũ Khắc Niệm và bác sĩ Đinh Hà:
- Thằng Tuấn mà về Đỗ Vinh thì phải đóng cho nó một cái bục để trong phòng mổ nó mới ‘’khua đao’’ được.
Sau đó nghe nói Tuấn bỏ không theo học khóa giải phẫu vì đòi hỏi của Tuấn là sau khi học xong phải cho Tuấn về lại bệnh viện Đỗ Vinh, điều mà Cục Quân Y không hứa.Thế là tập xong vật lý trị liệu Tuấn lại ‘’súng, xắc’’ trở về làm Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù cho tròn chu kỳ hai năm phục vụ ở cấp tiểu đoàn.
Trận chiến Khe Sanh mở màn. Đơn vi Dù hành quân cấp Chiến Đoàn. Khi một y sĩ mới về Tiểu Đoàn Quân Y Dù đúng vào lúc Sư Đoàn Dù đang chuẩn bị hành quân lớn,Trung Tá Y Sĩ Trưởng Hoàng Cơ Lân bao giờ cũng chờ chiếm xong mục tiêu mới cho bàn giao chức vụ. Người sẽ thế bác sĩ Tuấn là bác sĩ Trần Qúy Nhiếp. Trong khi chờ đáo nhậm đơn vị, bác sĩ Nhiếp ở hậu cứ sáng sáng đi nhảy bồi dưỡng.Vào thời điểm năm 1968 các sĩ quan đều bị cấm trại. Chúng tôi ăn, ngủ và làm việc ở bệnh viện Đỗ Vinh.Tôi còn nhớ một hôm đang còn nằm ngủ trưa thì bác sĩ Niệm vào vỗ tay, nói lớn:
- Dậy, dậy,có tin quan trọng!
Tôi ngồi bật dậy. Giọng Niệm đứt nghẹn:
- Thằng Tuấn chết rồi! Bị pháo kích! Y tá mình bị thương một lô nhưng không đứa nào chết. Chỉ có một mình Tuấn chết!. Đau thật!
Nhiếp nhận lệnh cấp tốc lên đường thay thế Tuấn. Định mệnh lại một lần nữa oái ăm chờ chực ở ngã rẽ của đời người. Chỉ còn vài ngày nữa là Tuấn chu toàn nhiệm kỳ hai năm ở cấp tiểu đoàn.
Khoảng 3 giờ chiều Trung Tá Y Sĩ Trưởng cho gọi tôi đến văn phòng ông. Ông nói,giọng cố giữ bình tĩnh:
- Anh Tuấn tử trận rồi chắc anh đã biết tin.Vì anh là y sĩ cũ của Tiểu Đoàn 6 Dù tôi giao anh nhiệm vụ thông báo tin buồn cho gia đình anh Tuấn. Anh đi ngay và lựa lời nói cho khéo. Anh về cho tôi biết ý muốn của gia đình anh Tuấn về việc mai táng.
Ngồi trên chiếc Jeep đưa tôi đến nhà Tuấn tôi như người vô hồn. Tôi hoang mang không biết phải mở đầu lời nói ra sao.Tôi chưa bao giờ được học tập để thi hành một công tác vừa khó khăn vừa tế nhị như đi báo tin một đồng đội vừa tử trận cho gia đình họ.
Tôi không còn nhớ nhà Tuấn ở khu nào, chì còn nhớ là một ngôi nhà nhỏ nằm trong một khu bình dân. Ra mở cửa là một ông cụ người tầm thước, mảnh khảnh.Thấy tôi mặc quân phục Dù, dứng thẳng chào tay, ông nở nụ cười và nói:
- Mời Đại Úy vào nhà.
Vào nhà ông chỉ tôi một chiếc ghế mời ngồi. Ông cũng đứng trước một ghế đối diện. Tôi vẫn đừng yên, cất chiếc mũ đỏ đang đội trên đầu, cầm chặt nó trong lòng hai bàn tay, rồi run run cất tiếng:
- Thưa Bác, cháu đại diện Trung Tá Y Sĩ Trưởng đến báo Bác một tin buồn: anh Tuấn đã tử trận ngày hôm qua.
Tôi vừa dứt lời ông cụ rơi người đánh phịch xuống chiếc ghế, ngồi bất động, hai mắt trừng trừng nhìn tôi, nét mặt nhợt nhạt.Tôi vẫn đứng yên không biết nói gì thêm. Giây lâu ông cụ mới hỏi:
- Bộ đánh nhau to lắm hay sao?
Lời nói của ông cụ như một cái phao, tôi vội níu lấy:
- Dạ vâng, trận chiến rất ác liệt. Anh Tuấn đang săn sóc một thương binh thì bị một quả pháo của địch rơi trúng.
Tôi chia buồn với ông cụ thêm lần nữa rồi chào cáo từ sau khi biết ý muốn mai táng của gia đình.
Đám tang của Tuấn được tổ chức trọng thể theo nghi lễ quân cách. Tôi là một trong bốn sĩ quan mặc đại lễ trắng đi cạnh quan tài Tuấn.Tôi còn nhớ lúc hạ huyệt, hai người khóc nhiều nhất là bác sĩ cố vấn Smith và bác sĩ Nguyễn Thượng Vũ, một bạn cùng lớp của Tuấn.
Sau đó tôi có làm cho Tuấn một bài thơ đăng trên báo Tiền Phong của quân đội. Hôm nay ghi lại bài thơ như một nén nhang thắp lên để nhớ một đồng đội,một đồng nghiệp cũ...
Một bài thơ cho Tuấn
Tao để Tiểu Đoàn 6 lại cho mầy
Trạm Cứu Thương
Có thằng Khiên mù
Có thằng Như ngọng
Tao để Vũng Tàu lại cho mầy
Bãi trước bãi sau
Gió biển ngây ngây mùi gái
Tao để căn phòng cư xá lại cho mầy
Đèn mười hai giờ khuya mới sáng
Đêm đêm nằm nghe bên cạnh vợ mắng chồng
Những thằng thương tao
Những đứa ghét tao
Tao để lại cho mầy
Hãy ăn miếng trả miếng
Những em bán bar
Những trái tim rẻ mạt
Tao để lại cho mầy
Hãy chớp lấy mà thỏa thê
Hãy vui hết hôm nay
Hãy sống hết hôm nay
Rồi hãy chán, hãy đi
Hãy như tao, hãy hơn tao
Nghe không mầy, Tuấn!
Tuấn ơí
Mầy đã chối từ những gì tao để lại
Mầy đã thờ ơ những gì tao mua vui
Mầy đứng ngoài cuộc sống
Mầy không chấp nhận tầm thường
Lẻ loi mà bất khuất
Mầy lớn lao bằng im lặng
Hiên ngang trong âm thầm
Hỡi thằng y sĩ Dù bé nhỏ của chúng tao ơi !
Đi chưa bao giờ biết mệt
Chiến đấu chưa bao giờ biết nằm
Đêm Gio Linh xác địch chất bên miệng hầm
Chiều Cao Lãnh đạn ghim sâu vào gối
Và Dakto mảnh sướt bờ vai
Hỡi thằng duy nhất của chúng tao ơi !
Hai lần chiến thương vẫn còn “súng, xắc”.
Chúng tao rửa ruột chờ ăn khao
Mầy lên Đại Úy
Mầy sắp về Bệnh Viện
Một chiếc bục cao dành sẵn cho mầy
Trong phòng mổ.
Sao mầy không về cùng anh em?
Sao mầy đi biền biệt?
Để một sớm mai buồn
Chúng tao thức dậy
Lặng người đau đớn
Nghe tin mầy hi sinh !
Mọi người khóc mầy
Bằng nước mắt tiếc thương
Bằng vòng hoa tưởng nhớ
Tuấn ơi !
Một người nằm xuống cần giấc ngủ yên
Tao khóc mầy bằng im lặng
Thời ở Tiểu Đoàn 3 Dù đóng quân ở Chợ Đệm, Bình Chánh, tôi có săn sóc vết thương cho một du kích Việt Cộng.Tên địch nầy đã tạo cảm hứng cho tôi viết một bài thơ tựa đề “ Nước mắt kẻ thù”.Tôi có vài lần săn sóc cho thương binh Cộng Sản, chính qui cũng như du kích. Đứng trước thương tích của kẻ thù tôi cảm thấy mình không mang chút thù hận. Có lẽ tại tôi chưa có dịp chứng kiến sự tàn ác của kẻ thù đối với quân bạn hay đối với dân chúng.
Phải tìm hiểu tại sao Tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay xử bắn tên đặc công Cộng Sản.Tại Sao? Vì tên nầy đã giết trọn gia đình một sĩ quan cảnh sát, thuộc cấp của ông.Ta có thể không đồng ý cách hàng động của ông nhưng ta cũng nên hiểu lòng ông.Trong chiến tranh, đau xót, uất hận vì tình đồng đội có thể thúc đẩy người cầm súng có những hành động, bình thường họ không bao giờ làm.
Tôi có một kỷ niệm nhỏ với tướng Nguyễn Ngọc Loan. Gần trước Tết, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3 Dù Thiếu Tá Trần Quốc Lịch cho mời tôi sang gặp ông. Sau khi tôi chào ông,Thiếu Tá Lịch bắt tay tôi và nói:
-Ngày mai Chuẩn Tướng Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia đến thăm viếng đơn vị mình, mời bác sĩ đứng trong hàng sĩ quan để chào đón Chuẩn Tướng.
Rồi ông tươi cười báo tin:
-Trong thời gian qua bác sĩ làm dân sự vụ nhiều chỗ, gây được cảm tình trong dân chúng, nâng cao uy tín của đơn vị, nên tôi đã đề nghị cho bác sĩ một Dân Vụ Bội Tinh. Ngày mai chính tay Chuẩn Tướng sẽ gắn huy chương cho bác sĩ.
Chuẩn Tướng Nguyễn Ngọc Loan đến thăm Tiểu Đoàn 3 Dù ở Chợ Đệm bằng trực thăng. Gắn huy chương cho tôi xong, ông bắt tay tôi cười nói:
- Bác sĩ mà cũng chịu khó lặn lội với anh em tác chiến nhỉ!
Tên du kích nằm trên cáng, y bận toàn đồ đen. Toán y mò về hoạt động lọt vào ổ kích của Dù. Y lãnh một băng M16 nhưng may mắn cho y, đạn chỉ gây thương tích ở hạ chi. Y mất máu khá nhiều. Tôi cho làm sạch các vết thương, truyền cho y một chai nước biển rồi liên lạc bộ chỉ huy tiểu đoàn xin trực thăng di tản. Tôi ngồi cạnh nhìn y, y nhìn tôi. Cái nhìn của y, ban đầu có vẻ ngang ngạnh, thách thức chuyển sang ngỡ ngàng, sững sờ và khi nghe tôi dịu dàng nói với y rằng vết thương tuy nặng nhưng y sẽ không bi cưa chân, y cầm tay tôi và bật khóc.
Giọt Nước Mắt Kẻ Thù
Nó bị thương
Bị bắt sống
Mọi người đòi giết nó
Nó núp dưới hầm
Với một khẩu tiểu liên
Cầm chân cả trung đội.
Nó bắn ngã chúng tôi một người
Bắn bị thương hai người khác
Tôi đọc nét hờn căm
Trên những khuôn mặt đồng đội
Mọi người đòi giết nó
Tên du kích vùng khốn nạn
Gài lựu đạn lùm cây bờ ruộng
Giết những người bắt cá mò tôm
Nó nằm đó
Mình bết bùn
Máu cánh tay nhầy nhụa
Tránh những tia nhìn đổ lửa
Những báng súng gờm gờm
Nó nằm chờ
Một phát súng vào đầu
Một lưỡi dao rạch bụng
Một cái đạp xuống hố sâu
Nó nằm chờ nằm chờ
Tử thần
Nhưng
Chỉ có bàn tay vuốt dịu căm hờn
Bàn tay băng bó vết thương
Bàn tay vỗ về an ủi
Nó nằm chờ tử thần
Sững sờ bắt gặp tình thương
Đồng loại
Đôi mắt sát nhân vụt bỗng hiền từ
Nhen hai dòng lệ nhỏ
Trong cuộc chiến hôm nay
Cho tôi xin chiến đấu không hận thù
Xin những vết thương bình đẳng
Cho tôi đổi một trăm chiến thắng
Lấy một giọt nước mắt kẻ thù
Bốn mươi năm sau đọc lại tác phẩm mình, những dòng chữ của một thời tuổi trẻ, một tuổi trẻ bất hạnh, lớn lên trong máu lửa của chiến tranh nhưng cũng là một tuổi trẻ mà mình đã dám chọn cho mình một cách sống, để biết thế nào là yêu nước, thế nào là tình đồng đội và thế nào là tình người.
Tháng 7 năm 2010
Trang Châu _____
Chú Thích:
(1) Trong bài phỏng vấn có đoạn tôi nói về cuốn Tình Một Thuở, nhờ 1 cô bạn gái mua đứt cho 10 cuốn, chính là Đặng Tuyết Mai. Quen biết chỉ kéo dài được mấy tháng, chỉ gặp ở nhà sách của ông chú (đường Lê Lợi), lúc ấy Tuyết Mai đang là tiếp viên Air Việt Nam. Có một lần đi cine và 1 lần chở vespa nàng đi ăn kem. Nhưng khi đọc báo loan tin Tướng Nguyễn Cao Kỳ lái trực thăng ban trưa chiếu đèn sáng trưng vào phòng Tuyết Mai ở đường Lê Lợi thì tôi rút lui vì sinh viên quân y với 2 hoa mai trên cổ áo làm sao địch lại 2 sao của tướng Kỳ! Tôi có hai bài thơ đăng trên báo Tình Thương của sinh viên Y Khoa, thuở đó với cái tựa:
Đề Nghị Isabelle
1. Để thay đổi không khí
Cho tình yêu
Em nên đi lấy chồng
Và nhớ đến anh
Trong những giờ hạnh phúc
2. Nếu em muốn làm ngăn cách
Cần gì phải một con đường
Hay một dòng sông
Hay một bức thành
Em chỉ cần gõ cửa tim anh
Và gọi tên một người rất lạ!
Thân Phận.
Trong cuộc đua
Chạy về trái tim em
Anh là con ngựa què
Nên chỉ thử
Một vai về ngược.
(Isabelle là tên Pháp của Tuyết Mai lúc học ở Yersin Đà Lạt)
(Thư Trang Châu gửi cho DuTuLe ngày 30 tháng 1 năm 2017)
(2) Mừng em: "Trước khi gặp Hoàng Kim Uyên, tôi có mối tình đầu, người đẹp tên X.L., nữ sinh Đồng Khánh Huế. Tôi rời Huế lên Đà Lạt học (Bac II) rồi xuống Sài Gòn vào y khoa. Nàng rời Huế vào Nha Trang. Xa mặt cách lòng, nàng lấy chồng, một chàng sư phạm du học Mỹ về. Nàng lấy chồng mà gửi thiệp cưới cho tôi! Và bài thơ "Mừng Em" ra đời. X. L. hiện ở DC.
Bài thơ "Khâu áo" tôi làm lúc ở trọ nhà 3 chị em gái ở đường Cao Thắng, Sài Gòn. Chị Xuyến, cô em út lớn hơn tôi 6 tuổi (Lúc đó tôi 18 tuổi thì phải) săn sóc tôi rất kỹ. Đọc truyện "Chị Xuyến" ông sẽ rõ. Nó thật đến 80%, trừ đoạn cuối là hư cấu. (Thư Trang Châu gửi cho DuTuLe ngày 30 tháng 1 năm 2017)