Trong công cuộc bảo tồn văn học và lưu truyền cho thế hệ sau, có những người âm thầm làm việc trong các lănh vực chẳng mấy ai để ư.

Nguyễn Hữu Thời là một người như thế.

Ông cất công sưu tầm thơ theo những chủ đề rất khác. Sau nhiều năm cân nhắc, ông đă tuyển ra 130 bài thơ từ 52 tác giả. Họ có một điểm chung là những người lính chiến bảo vệ miền Nam. Những bài thơ mang nỗi niềm, ước vọng của người lính chiến. Dạt dào t́nh cảm, vắng bóng hận thù sắt máu. Và rồi ông cặm cụi dịch những bài thơ này ra Anh ngữ, tập hợp lại thành một tuyển tập thơ song ngữ: “Thơ Lính Chiến Miền Nam – ARVN Soldiers’ Poetry”, được xuất bản năm 2016.

Tưởng là ông đă hài ḷng khi tuyển tập thơ ra mắt. Nhưng không. Bởi v́ cuộc đời người lính chiến Miền Nam không đứt đoạn khi cuộc chiến chấm dứt. Mà nó chuyển đổi. Từ hào hùng, anh dũng, nay xuống đất đen tủi nhục. Không nhắc đến giai đoạn này là một thiếu sót lớn. Nguyễn Hữu Thời cũng đă nghĩ như thế. Đă làm th́ làm đến tận nơi. Người lính, khi đă vào trận th́ chiến đấu đến phút không thể tiếp tục. Do đó, ông đă, một lần nữa, cặm cụi thu thập những bài thơ do những người lính chiến đă viết lên khi họ đă chịu mang tiếng “thua cuộc”. Và rồi, ba năm sau khi tuyển tập thơ “Thơ Lính Chiến Miền Nam – ARVN Soldiers’ Poetry”, tuyển tập thơ thứ hai đă ra mắt (2019).

Cũng là một tập thơ song ngữ Việt-Anh, với tựa đề “Thơ Những Người Thua Cuộc – Poems of the Losers”, tuyển tập là một công tŕnh sưu tầm và chuyển ngữ dài hơi 530 trang sách. Cũng với một chủ đề rơ rệt: Đây là tập hợp những bài thơ do những người lính chiến sau khi thua cuộc đă viết.

Cuộc sưu tập lần này hẳn khó hơn. Một số đă bẻ bút sau khi buông súng. Một xă hội chật vật, ngoài những khó khăn để tiếp tục tồn tại kiếp sống công dân hạng hai, c̣n đầy dẫy cạm bẫy ŕnh rập, những nhà tù sẵn sàng mở cửa. Những người đă vượt thoát phải lăn lộn mưu sinh. Rồi những người đă âm thầm nằm xuống… Nếu không có người t́m kiếm và giới thiệu, những mảnh thơ phản ánh tâm tư, đời sống của họ trong khoảng thời gian ngay sau cuộc chiến sẽ mất dấu.

Nguyễn Hữu Thời đă làm công việc này. Một ḿnh, với tuổi đă xế chiều, với những bệnh tuổi già. Cặm cụi sưu tầm, rồi cặm cụi dịch ra Anh ngữ. Chật vật lắm. Tất cả chỉ v́ muốn có một “cái ǵ đó” để lại cho những thế hệ sau, may ra có người c̣n nhớ mà t́m đến. Và cũng như món quà gửi đến các đồng đội, bạn thơ văn, bất kể quen biết qua cá nhân hay chỉ qua tài liệu. Khâm phục là ở chỗ đó. Phải nói thêm là trong số 50 tác giả của những bài thơ trong tuyển tập này có 26 tác giả đă góp mặt trong tuyển tập trước của Nguyễn Hữu Thời. Độc giả nào sở hữu hai tuyển tập có thể theo dơi suy nghĩ của 26 nhân vật này trong hoàn cảnh trong và sau cuộc chiến.

Tóm lại, tổng cộng hơn 250 bài thơ của gần tám mươi tác giả đă được người Nguyễn Hữu Thời sưu tầm, dịch để đúc kết thành hai tác phẩm.

***

50 nhân vật (tôi tránh dùng từ “thi sĩ” hay “nhà thơ” v́ có những người trong số này chắc chắn sẽ thẳng thắn từ chối sự xưng tụng này) trong “Thơ Những Người Thua Cuộc” đă trải ḷng ḿnh ra trên những vần thơ bằng đủ thể loại. Dưới tên mỗi nhân vật là hai gịng tóm tắt tiểu sử (năm sinh, quê quán, gốc quân đội và nơi cư trú hiện thời). Qua đó, người ta có thể thấy, ngoài các sĩ quan chiếm phần lớn, c̣n có (theo lời giới thiệu sơ lược tiểu sử) 1 sĩ quan cảnh sát, 1 hạ sĩ quan, 1 thông dịch viên và 4 quân nhân. Nhiều người trong số này tới nay vẫn c̣n tiếp tục sáng tác hay hoạt động trong những sinh hoạt phục vụ cộng đồng.

Ngoại trừ vài trường hợp cá biệt (cư ngụ ở Canada, Úc, Na Uy), đại đa số các tác giả góp mặt hiện đang định cư ở Hoa Kỳ. Số c̣n lại – kể cả người sưu tầm và thực hiện tuyển tập – hiện c̣n ở Việt Nam. Con số này phải chăng đă cho ta thấy một điều: những người đă ra khỏi nước có được thời giờ và điều kiện sáng tác hơn những người c̣n ở Việt Nam?

Qua 121 bài thơ, người đọc rất dễ nhận ra những ǵ những người thua cuộc cảm nhận. Đó là cay đắng.

Chiều nay đôi mắt Tư lệnh đỏ
Ḿnh tưởng giống ḿnh mất ngủ thôi
Bây giờ mới biết v́ đau khổ
Thượng cấp bỏ đi, chạy hết rồi
(Mặc kệ ai bỏ nhà bỏ nước – Nguyễn Phúc Sông Hương)

Đó là nhẫn nhục. Nhẫn nhục nhưng không hèn nhát.

Nh́n lũ người man rợ
Chửi rủa ta hàng ngày
Ta làm thinh – Tưởng sợ
Thứ khùng điên cuồng say!!
(Lặng lẽ cảnh tù – Thy Lan Thảo)

dù ta đă từng ngă gục
phải gượng dậy đứng thẳng người
hăy im lặng
người lính già thất trận

(Bài ca người thất trận – Phan Xuân Sinh)

Đó là những phút giây nhớ lại ngày xưa, tới gia đ́nh, nhớ hay tưởng nhớ bạn đồng đội.

…có thằng về núi… có thằng chẻ thơ đau làm củi… có thằng cùng văn chương hủy vào áo quan hỏa táng thành than… Ba thằng chết c̣n ba đứa sống… (Ba cái chết một nỗi buồn – Ngô Đ́nh Khoa).

Đó là ngày ră ngũ tập thể suốt đời không thể quên.

Tim tôi ai lấy dao đâm
Lúc cởi bỏ đi áo lính
(
Tháng Tư, ngày cuối – Nguyễn Văn Ngọc)

Đó là trại cải tạo, là lao tù.

Nay rướm máu sức người cùng tận
Buổi chiều về không đủ miếng ăn
Nỗi cơ cực gặm ṃn sự sống
Cây khẳng khiu ngày tháng khô dần
(Hăm địa – Lâm Chương)

Đó là cuộc mưu sinh vất vả nhọc nhằn khi trở về với gia đ́nh, làm những nghề lao động không được xă hội coi trọng như đạp xe xích-lô, bán cà-rem, phu khuân vác v.v…

Đạp xích-lô hề, thời thổ tả
A ha, lao động để vinh quang
Chỉ tiếc xưa phí công kinh sử
Tàn cuộc rồi bỗng hóa lầm than!

(Xích-lô hành – Nguyễn Văn Ngọc)

Cải tạo về, lên non phát rẫy
Vợ lo “phe phẩy”, ta tiều phu

(Ngày về – Nguyễn Dương Quang)

 hay về một nơi nào đó, tạm trú vất vưởng:

Có thể tôi tạm trú suốt đời, tôi nói
Nghĩa là con tôi tạm trú (không chứng minh nhân dân)
Và cháu tôi tạm trú (không khai sanh)
Đă được ba đời rồi, ở quê hương tổ quốc tôi
(Chuyện không đáng nói – Nguyễn Phan Thịnh)

Đó là những chuyến chạy loạn, vượt biên, vượt biển. Và chia ly:

Biển vẫn c̣n giữ một trang b́a buồn
Và giữ lại em
Để tặng tôi

(Bài thơ 4000 – Phan Ni Tấn)

Em ở đâu trong ḍng người tản cư rồng rắn
Ven đường dọc suối bên rừng dưới sông trên biển
Đến tận giờ vẫn bằn bặt một ḍng thư!..
(Thiên thần tháng tư – Nguyễn Đăng Tŕnh)

Đó là cảm hoài nơi đất lạ:

Đến đây là đă xa ngàn dậm
Sao sóng bạc đầu lại quá quen

(Ở Galveston – Nguyễn Ngọc Nghĩa)

hay chua chát v́ những cái tên bị gắn lên người, tùy theo hoàn cảnh tâm tư, từ “thằng ngụy”, sang “Việt kiều”, rồi “Việt kiều yêu nước”, hoặc “Việt gian”, “Việt cộng” (Một cái tên của tôi – Phan Xuân Sinh) hay:

Ta kiêu hănh làm tên tù quá khứ
Hơn những người sống thở phải hai mang

(Ở tù trong quá khứ – Lâm Hảo Dũng)

Và rồi uất hận nh́n những người thắng cuộc vơ vét, phá hoại:

Các ông bán và cho thuê hết sạch
Giang sơn đang vào những túi tham riêng
(Lại khóc thương quê – Hoàng Lộc)

Bọn chúng nó đè đầu dân bóp cổ
Biển hăi hùng. Nhuốm đỏ. Hăi hùng thêm
(Hiện trạng – Quan Dương)

Những địa danh gợi nhớ một thời súng đạn: Chu Phong, An Lộc, Khe Sanh, đèo Lao Bảo, Tân Hiệp…, th́ nay đối lại với gông cùm rào trại của Hàm Tân, Nam Hà, Xuân Lộc, Z30A v.v…

Sáng vào rừng rút mây đẵn gỗ
Chiều về nặng trĩu vai
Vác cây đời thánh giá
Đêm nằm canh giấc mơ
(Tiếng chim lạ ở trại tù Cồn Tiên – Lữ Quỳnh)

***

121 bài thơ, nếu chia đều cho 50 tác giả, trung b́nh mỗi người được 2 hoặc 3 bài. Nhưng c̣n tùy thuộc sức sáng tác và điều kiện chi phối khi sưu tập, số lượng không thể đồng đều. Có 4 tác giả đóng góp 1 bài thơ (trong số này có Trang Châu với bài thơ “Dặn Con Khi Khôn Lớn”, với tóm lược tiểu sử: Sinh năm 1938 tại Huế, cựu bác sĩ quân y Nhảy Dù QLVNCH, hiện sống tại Hoa Kỳ – xem phụ lục cuối bài), và 10 tác giả khác có 4 bài thơ được đưa vào tuyển tập. Khi thành h́nh tuyển tập, 4 tác giả đă không có cơ hội đọc lại bài thơ của ḿnh một lần nữa.

Có những bài thơ dài tới 6, 7 trang giấy trải dài tâm tư trong một khúc hồi ức (Giao Thừa Năm 37 Tuổi – Lê Mai Lĩnh; Người Tù Già Kể Chuyện Ḿnh – Nguyễn Hữu Nhật; Mẹ Bên Rừng – Hạ Quốc Huy…). Bên cạnh đó, có những bài chỉ vỏn vẹn vài câu (Khi Đời Đă Bỏ – Nguyễn Tư; Thiên An Môn – Phương Tấn…). Dù dài hay ngắn, tất cả những bài thơ đều toát ra một chữ: “Buồn”. Chỉ một chữ thôi, cũng đủ gói gọn tâm can những người thua cuộc, thua một cách vô lư. Trong 121 bài thơ, 14 bài có “Tháng Tư” trong tựa, 6 bài tựa có mang chữ “tù” và 5 có chữ “buồn” đă đủ để xác định. Có những cái buồn quay quắt:

Đă đến rồi cái Tháng Tư chết tiệt
Buồn nhiều người và vui của nhiều người
Cái kỷ niệm của một thời chinh chiến
Ta quay về mà nước mắt rơi rơi

(Kư ức Tháng Tư – Hồ Chí Bửu)

và chịu đựng v́ bất lực:

…Thôi th́,
em cứ “phụ” đi!
cơn đau nào
cũng xin ghi tạc ḷng.
(Chịu đựng sau cùng – Nguyễn Tư)

Nhưng rồi lại có những đoạn thơ ngắn mà chứa chan t́nh cảm:

Anh đă về dưới mái nhà xưa
Người chị mắt ḷa, nh́n em không tỏ mặt
Giọng khàn khàn thăm hỏi nhỏ to
Rưng rưng sương ướt vai rồi
Và anh khóc.

(Dưới mái nhà xưa – Đức Phổ)

Tại sao tôi lại khóc
Có phải v́ củ sắn nướng chiều nay
(Người tù già kể chuyện ḿnh – Nguyễn Hữu Nhật)

hay cảm khái:

Ai chí lớn bao đồng thiên hạ
Ta trí cùn lo việc tu thân
(Đời ta rất tầm thường – Lâm Chương)

Hai mươi ba năm người c̣n kẻ mất
Nghĩa khí! Ươn hèn! Ai đấng sĩ phu?

(Có những điều đă từng im lặng – Ngô Đa Thiện)

Tuy vậy, có những phút giây ấm ḷng trước t́nh người miền Nam dành cho kẻ chiến bại:

...Nghe trong đám đông
Tiếng ai sụt sịt
Các chú lính ơi

(Chén cơm làng Long Thạnh Mỹ ngày 30/4 – Nguyễn Phúc Sông Hương)

…Mới hay trong tận cùng khốn khó
C̣n khối người giữ được ḷng nhân
(Xích-lô hành – Nguyễn Văn Ngọc)

Có tay người nâng vai anh dậy
Và tiếng đàn bà lạc giọng th́ thầm
Anh nghe lạ như từ cơi xa vời
Mơ hồ lắm – Thầy ơi!

(Xích lô lên cầu – Nguyễn Phan Thịnh)

Chị dúi gói xôi vào tay
Bác đem cho bộ thường phục
T́nh dân vẫn bát nước đầy

(Tháng Tư, ngày cuối – Nguyễn Văn Ngọc)

hay nghẹn ngào khi gặp đồng đội xưa:

Hơn bốn mươi năm nh́n không ra
Ông của xưa là tên lính quậy
(Gặp một lính cũ ở Conway – Hoàng Lộc)

Nh́n nhau bỡ ngỡ
Thằng bạc tóc ôm thằng trơ nứu
(Sóng chao – Đức Phổ)

***

Tuyển tập song ngữ này được tŕnh bày đối chiếu nhau: trang chẵn Việt ngữ, trang lẻ Anh ngữ, với cùng các kiểu và cỡ chữ. Dịch văn xuôi đă khó, dịch thơ càng nhiêu khê hơn. Bản Anh ngữ, cho dù người thực hiện tuyển tập rơ ràng có cố gắng, nhưng nó mang ư nghĩa bản dịch nghĩa hơn là chuyển từ thơ sang thơ. Sức người có hạn, hơn nữa mục đích chính của người làm nên tuyển tập này là muốn cho những người thông thạo Anh ngữ hơn Việt ngữ có thể hiểu những bài thơ chuyên chở những cảm nghĩ ǵ. Ngôn ngữ Việt, nhất là trong thơ, có những cách diễn tả đặc thù, hoặc giản lược câu, hoặc ngụ ư, hoặc mượn h́nh tượng v.v…, không dễ dịch sang ngoại văn cũng theo cách ngắn gọn hàm ư như thế mà đọc xuôi tai. Diễn giải thêm là một điều không tránh khỏi. Thí dụ: Chiếu bó thây nằm lại rẫy nương = Only the mat was used to wrap the body for burial (tr. 146-147), sau một cuộc nồi da xáo thịt = after the civil war of brothers fighting brothers (tr. 390-391), v.v…. Những câu trong phần Anh ngữ v́ vậy trung b́nh dài gấp rưỡi câu trong nguyên bản. Nguyễn Hữu Thời đă mất nhiều công t́m chữ, nhất là những thành ngữ, để dịch, trong một hoàn cảnh không có được phương tiện tra cứu dồi dào. Trong bài thơ “Chỉ Thấy Những Căn Trại Trong Đời” (tác giả: Nguyễn Tư), 8 chữ “trại” khác nhau đă được chuyển sang Anh ngữ trọn vẹn cũng với một chữ “camp”, một kỳ công. Duy có một số trạng từ bổ thêm khía cạnh tinh tế cho tĩnh từ đành phải bỏ qua cho khỏi rườm ra. Tuy thế, tôi rất đắc ư khi đọc bản Anh ngữ tới những cụm từ như Kèn thổi ngược trống đánh xuôi – tr. 22 (Drummers and clarinetists play a cats’ concerto), phe phẩy – tr. 226 (roundabout trading), Rượu tá lả – tr. 256 (I drink like a fish)…, để rồi thỉnh thoảng cũng phải nhíu mày khi thấy những chỗ theo tôi chưa chỉnh, như quả th́u biu (rotten fruit, tr. 359 – the scrotum?), khô mối (dried cuttlefish, tr. 487 – dried sauryfish?), núi đồi Việt Bắc (¹ mountainous North of Vietnam, tr. 145). Rất tiếc là Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, một dịch giả có uy tín về văn thơ Việt Nam, người đă giúp Nguyễn Hữu Thời hiệu đính tuyển tập lần trước, đă qua đời, v́ thế ông mất một người thầy để tham khảo.

Đặc biệt, bản dịch Anh ngữ của tập thơ đă được xuất bản song hành, như một ấn bản Anh ngữ, để dành cho những người không biết tiếng Việt, cũng là một sáng kiến hay, một công hai chuyện: bớt lăng phí và người mua chỉ phải trả tiền những ǵ họ muốn đọc.

***

Thế đó. Đời người lính chiến ở vào bên thua cuộc thật đa dạng, thật phức tạp. Họ phải chống chọi với những dằn vặt nội tâm, lời hứa với đồng đội, gia đ́nh ly tán, bạn thù lẫn lộn. Có thể có vài người, khi đọc xong tác phẩm sẽ có ư nghĩ là một số bài thơ cho người đọc thấy những biểu hiện mà y học gọi là Hội chứng Hậu Chấn Tâm Lư (PTSD – có lẽ ta phải thêm một từ ǵ đó để dùng riêng cho những người chiến binh thua cuộc một cách bất đắc dĩ như những người lính chiến trong Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa). Nhưng theo ư riêng của tôi, tuyển tập “Thơ Những Người Thua Cuộc – Poems of the Losers” này, cùng với tuyển tập đă xuất bản hai năm trước (Thơ Lính Chiến Miền Nam – ARVN Soldiers’ Poetry) đă diễn tả trọn vẹn tâm trạng của những người ôm ấp tâm sự trong ḷng mà không thể kể hết cho con cháu nghe.

Các nhà thơ thường là những người khó tính. Những vị giữ phần biên tập sách báo do đó thường rất thận trọng trong mục thơ, ít dám sửa chữa. Tôi nghĩ Nguyễn Hữu Thời cũng vậy, v́ điều kiện liên lạc với các tác giả có thể là rào cản cho một công tác sưu tầm và lên sách được toàn hảo. V́ vậy, rải rác đây đó người đọc có thể thấy những chữ đáng ra cần hiệu đính lại mà không nhất thiết phải hỏi ư tác giả, như: chửi rũa (tr. 176), ngất ngưỡng (tr. 208), Đoàn Mạnh Quạch (tr. 212), Viêt Nam (tr. 316), bắng thẳng (tr. 348), ngẹn ngào (tr. 390), nằm ngữa (tr. 434), v.v… Trong các gịng tiểu sử ở phần tiếng Anh, Nguyễn Hữu Thời dùng chữ tắt RVNAF để dịch “Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa” và ông đă chú thích điều này nơi tiểu sử tác giả đầu tiên (tr. 23), là RVNAF là chữ tắt của Republic of Vietnam Armed Forces. Chữ viết tắt của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa theo như wikipedia (mà hiện nay gần như đă trở thành tài liệu chính để tra cứu) là RVNMF (Republic of Vietnam Military Forces), c̣n chữ tắt RVNAF thường được hiểu là chữ viết tắt của binh chủng Không Quân (Republic of Vietnam Air Force). Điều này có thể gây hiểu lầm nơi những người chỉ đọc bản Anh ngữ nếu họ đă quen cách viết tắt người Mỹ thường dùng là ARVN để chỉ Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Những tiểu tiết này đương nhiên không làm sứt mẻ giá trị của hai tuyển tập thơ đă được dày công biên soạn.

Nguyễn Hiền

______

Thơ Những Người Thua Cuộc – Poems of the Losers
Nguyễn Hữu Thời sưu tầm, dịch thuật
Layout: Vũ Đ́nh Trọng. B́a: Nguyễn Hữu Thời
530 trang. B́a mỏng
ISBN 978-0-359-47634-3
Nhà xuất bản Sống phát hành (2019), email: publishingsong@gmail.com
Có thể đặt mua trực tiếp qua mạng: www.lulu.com
US$ 32.

Poems of the Losers
Nguyễn Hữu Thời Compiler – Translator
Layout: Vũ Đ́nh Trọng. Cover: Nguyễn Hữu Thời
270 pages. Paperback
ISBN 978-0-359-48920-6
Sống Publishing (2019), email: publishingsong@gmail.com
Online order: www.lulu.com
US$ 20.

****

Dặn con khi khôn lớn

Ngày ra đi cha ẵm trên tay
Con mới khôn ba tháng một ngày
Con không biết nhà tan nước mất
Không biết ḿnh sao lạc phương Tây

Con lớn lên quê người ấm no
Đất yên vui tươi thắm bốn mùa
Con đâu biết quê ḿnh gấm vóc
Chỉ nghèo hèn từ độ can qua

Con sống đời b́nh đẳng, tự do
Tâm trí con không ngại không ngờ
Con đâu biết tự do, b́nh đẳng
Ở xứ ḿnh như nắng chiều mưa

Con có quyền mong, có quyền chờ
Có quyền rất thực, có quyền thơ
Con đâu biết những ǵ con hưởng
Là những ǵ đất nước đang mơ

Tên con, cha phải đặt thêm tên
Cho người dễ gọi, người nghe quen
Nhưng con nhớ: người người ta trọng
Là người không chối bỏ tổ tiên

Con hăy là gương sáng cần cù
Hăy là khiêm nhượng, hăy là nhu
Nhưng con phải giữ niềm kiêu hănh
Làm người thua thiệt có suy tư

Nơi chốn ganh đua để sống c̣n
Trường đời con hăy nhớ luôn luôn
Thù con chưa chắc thù của bạn
Bạn bạn con chưa hẳn bạn con

Nếu con thấy đêm đen mịt mùng
Con đừng ngồi đó để mong trăng
Đừng ngồi đó chờ ai nhóm lửa
Tự đốt con ơi, ngọn nến hồng

Trang Châu