Một chút đối
thoại về
NGHIÊM SỸ
TUẤN!
Bác sĩ Lại Mạnh Cường
Bác
sĩ Lại Mạnh Cường, sinh 1949 tại Thái B́nh,
Bắc phần. Di cư vào Nam 1954, lớn lên ở Sài
G̣n.Trung học Nguyễn Trăi và Chu Văn An.Tốt nghiệp
Đại học Y khoa Sài G̣n 1974; luận án 10/04/1975. Y
sĩ Trưng tập khoá 17. Tù Cộng sản sau 30.04.1975,
ra tù 08/1976; một thời gian hành nghề “chui” cho tới
khi đi định cư ở Hoà Lan từ tháng 11/1985. Trở
lại học Y khoa ở Amsterdam, lấy bằng
tương đương 17/10/1990. Hiện vẫn cư
ngụ tại Amsterdam tới nay.
Nghiêm
Sỹ Tuấn (NST) sinh năm 1937, trên tôi một giáp, ra
trường năm 1965, trên tôi 9 lớp. NST ra đơn
vị khoảng một năm, tôi mới tập tễnh
bước vào năm dự bị y khoa APM (Année Préparatoire
de Médecine).
Tôi chỉ nghe
qua tiếng NST khi trong giới áo trắng bàn bạc về
các quân y sĩ hy sinh ngoài chiến trường, như NST
ở Khe Sanh vào tháng 4 năm 1968.
Qua tuyển
tập về NST do bác sĩ Ngô Thế Vinh chủ
trương và biên soạn, tôi phác hoạ ít nhiều chân
dung của vị đàn anh đáng kính đă hy sinh trong
chiến tranh khi đang cứu giúp thương binh trong
lửa đạn.
Chắc
chắn trong cuộc đời tôi không có cơ may nào
gặp gỡ để trao đổi trực tiếp
với ông, nhưng v́ ngưỡng mộ nhân cách lớn và
việc làm của ông, bắt chước ông tôi thử
tưởng tượng ra một cuộc đối
thoại thật ngắn với ông về một tiểu
phẩm ông sáng tác làm tôi day dứt măi trong ḷng với ít
nhiều băn khoăn, thắc mắc.
Đó là
truyện ngắn tựa đề PARA BELLUM (PB) rất
lạ bằng tiếng Latin cổ, được trích
dẫn từ câu tục ngữ cách nay nhiều thế
kỷ “Si vis pacem, para bellum”. Dịch sang Anh ngữ: “If you
want peace, prepare for war”; Việt ngữ: “Muốn hoà b́nh,
phải chuẩn bị chiến tranh” !
Đă có tranh
luận về nguồn gốc câu nói nổi tiếng trên,
nhưng tựu chung đó là một khẳng định cho
rằng giải pháp hiệu quả nhất để có/ bảo
vệ hoà b́nh là phải luôn luôn cảnh giác bằng mọi
vũ trang quân sự, để sẵn sàng tự vệ khi
cần đến. Đừng để “nước
đến chân mới nhảy” th́ đă quá muộn!
PB là một
tổng hợp các cuộc đối thoại (dialogues),
chủ yếu giữa tác giả (NST), trong lúc chờ ra
đơn vị, với những người thân yêu:
người yêu, anh bạn, ông bác già, cháu bé gái.
Cách dựng
truyện khá lạ lùng, và cách đặt tên nhân vật c̣n
“đặc biệt” hơn thế. Ông đánh số cho các
nhân vật! Ông là “người thứ nhất”; theo thứ
tự người yêu là “người số hai”, bạn
“số ba”, bác “số bốn”, cháu “số năm” …
Điều này
làm tôi liên tưởng ngay đến nhạc sĩ Vũ
Thành An trước 75 và sau này sáng tác một loạt bài t́nh
ca loại nhạc vàng, mang tên “Bài không tên số 1” rồi số
2, 3, 4, 5… kể cả “Bài không tên cuối cùng”… Nghe nói
nhạc sĩ sáng tác các bài này không theo thứ tự
thời gian như được đánh số. C̣n ở
quê hương thứ hai Vùng Đất Thấp của tôi
có bà ca sĩ thế hệ cũ (1919-1998) lấy nghệ
danh “Ca sĩ không tên” (Singer Without Name / Zangeres Zonder Naam), và bà
rất nổi tiếng qua những bài hát gọi là
“levenslied” (life song; song about life), thường là miêu tả
mặt trái cuộc đời. V́ thế bà c̣n
được gán cho danh hiệu “Queen of life song” (“Koningin
van het levenslied”)!
Những cái
độc đáo không giống ai, thường bị
người dân miền Nam trước 1975 diễu cợt
gọi là “mười hai con giáp không giống con nào”, không
phải là không có chủ ư nơi con người sống
nhiều về nội tâm NST. Phải chăng ông cố ư
cho các nhân vật trong PB hoàn toàn không có ǵ đặc biệt
mà phải định danh rơ ràng. Họ tầm
thường như các con số thứ tự trong
đời thường. Vâng họ chỉ là một
hạt cát trong sa mạc, những người dân thấp
cổ bé họng trong xă hội. Họ chẳng đại
diện cho ai, kể cả cái đám quần chúng thực
đông đảo nhưng luôn luôn thầm lặng. Cho
dù họ có trí tuệ và đă góp phần không thua kém ai trong
nhân quần xă hội.
Theo tôi các
đối thoại hoàn toàn theo trí tưởng
tượng, thực chất chỉ là những màn
độc thoại (monologues) giữa tác giả với
chính bản thân, để ông qua đó tŕnh bày nhân sinh quan cá
nhân trước thời cuộc. Cũng có thể nói là ông
cố biện hộ cho chọn lựa sẵn sàng nhập
cuộc “chơi lớn”, nói kiểu bi quan là tự đánh
bạc với số phận ḿnh.
Và chỉ có
cuộc đối thoại với người bạn
mới thực sự là một cuộc tranh luận tay
đôi (one-on-one debate/ één-op-één debat) thật gây cấn,
đầy lư thú và đủ độ nóng, nên mặc nhiên
được xem là trung tâm PB. NST đă cố gửi
gấm thật nhiều qua lời thoại giữa hai
người bạn. Thậm chí có lúc ông cố t́nh tạo
ra những giây phút khá gây cấn giữa đôi bên,
để mong t́m được đáp số khả dĩ
đúng nhất cho nan đề đất nước.
Theo mô tả
của bằng hữu trong Tuyển tập NST nói trên, ông
chính thức đi học trung học đệ nhất
cấp rất trễ, lúc 14 tuổi. Nhưng học
giỏi, nên ông không vấp váp trong suốt thời gian 7
năm trung học và 7 năm đại học Y khoa Sài G̣n.
Ông chịu khó trau dồi sinh ngữ, biết khoảng 5
thứ tiếng (Pháp, Anh, Đức, Latin, Tàu), “ngốn”
không biết cơ man nào các danh tác thế giới. Bằng
chứng ông đă phô trương kiến thức rộng
lớn và vững chắc của ḿnh qua các tác phẩm
đủ mọi thể loại, khi tham gia làm báo nguyệt
san T́nh Thương của trường Y từ số
đầu đến số 13, là lúc ông ra trường.
Thời gian
khoảng từ 01/1964 - 01/1966, ông giữ chức Thư kư
toà soạn và nằm trong Ban Quan điểm. Các bài quan
điểm trong các số báo đều do ông và hai
người bạn khác là Đặng Vũ Vương
(cùng lớp) và Hà Ngọc Thuần (dưới một
lớp) hội ư rồi phân công chấp bút. Đó là công tác
nhóm (teamwork). Các bạn của T́nh Thương, điển
h́nh như Đặng Vũ Vương và Ngô Thế Vinh,
đều cho rằng NST đă tạo một dấu
ấn đậm nét trong Ban Biên tập nói riêng và T́nh
Thương nói chung.
Đi sâu hơn
nữa NST thấp bé (158cm) nhẹ cân (40 kg), nhưng lại
t́nh nguyện vào binh chủng nhảy dù khi ra trường
chọn đơn vị. Bạn thân nghe tin, có người
chế diễu: “Thằng Tuấn mà đi nhảy dù
chắc dù nó bay lên chứ không xuống đâu” !
Tuổi
đời NST lúc đó đă gần 30 tuổi, là con trai
cả trong gia đ́nh Bắc kỳ di cư 54 thanh bạch,
thời cuộc giữa thập niên 60 như dầu sôi trên
bếp lửa cháy đùng đùng, chắc chắn ông đă
“động năo” rất nhiều khi lấy quyết
định trên.
H́nh 1:Y
Sĩ Tiền Tuyến Nghiêm Sỹ Tuấn, Người
Đi T́m Mùa Xuân; TSYS Canada và Việt Ecology Press xuất
bản 2019, http://vietecologypress.blogspot.com/p/newest.html
Nhà văn quân
đội, sĩ quan tác chiến Nhảy dù Phan Nhật Nam
đă lư giải sâu sắc về sự chọn lựa
khắc nghiệt ấy:
“Bác Sĩ
Nghiêm Sỹ Tuấn hẳn không chọn binh chủng
Nhảy Dù do được khích động,
quyến rũ từ h́nh tượng “áo hoa nón
đỏ” mà phần đông thành phần quân nhân t́nh
nguyện, sĩ quan chuyên nghiệp vơ bị tốt
nghiệp Đà Lạt, Thủ Đức,
Đồng Đế đă nồng nhiệt ghi danh.
Anh thuộc về một mẫu người
khác, ở nơi khác (khác thế nào chúng ta sẽ t́m
hiểu sau), nhưng có thể nói trước
rằng Nghiêm Sỹ Tuấn là người
Trọng Kỷ Luật - Giữ Nguyên Tắc.
Triết lư sống của anh giữa xă hội,
với đồng nghiệp, với quân
đội là Chiến Đấu - Kỷ Luật
- và Vị Tha. Anh quan niệm như thế và sống
đúng như thế. Giữa những năm 1960,
khi đang làm báo T́nh Thương của sinh viên Y Khoa, là
những năm biến động, hỗn
loạn toàn miền Nam, ngoài tiền tuyến chiến tranh
ngày càng ác liệt lan rộng, dâng cao với
chết chóc, tàn phá; trong khi hậu phương là
một mặt trận khác với
những cuộc biểu t́nh liên tục, ṿng
kẽm gai, và lựu đạn cay trải dài,
chắn ngang, rối tung trên khắp các
đường phố. Sài G̣n đă là một
diễn trường tệ hại với những
cuộc tranh giành quyền lợi giữa các phe
nhóm, các cá nhân cấp tướng lănh, chỉ huy quân
đội. Người Lính - Lính Nhảy Dù
từ mặt trận chuyển về Sài G̣n
với quần áo c̣n nguyên mùi bùn, mùi máu im lặng
phẫn uất đứng giữa sỉ nhục,
lăng mạ và đá ném từ đám đông nhân danh
tôn giáo và dân tộc! Y sĩ Trung Úy Nghiêm Sỹ Tuấn
t́nh nguyện đứng cùng một phía
những Người Lính này - Thế hệ
tuổi trẻ Miền Nam chịu đựng khổ
nạn một cách khắc kỷ mà không hề nói
lên lời ta thán. Buổi chọn lựa đơn
vị Nhảy Dù trong ngày măn khóa càng được soi
rơ: Bác sĩ dân y trưng tập không buộc
phải thi hành nghĩa vụ quân sự nơi
đơn vị tác chiến. Thế nhưng, Trung úy Nghiêm
Sỹ Tuấn, Bác Sĩ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù đă
chọn đúng đơn vị.
(…)
Thế nên anh viết truyện ngắn Para Bellum
với chủ ư từ thành ngữ La-Tinh: Para
Bellum - Si vis pacem, para bellum – Nếu Muốn Ḥa B́nh Hăy
Chuẩn Bị Chiến Tranh – Không những là yêu
cầu sinh tử của Việt Nam Cộng
Ḥa trong thập niên 1960’s mà của cả Việt
Nam suốt Thế Kỷ 20 cho đến hiện nay,
qua Thế Kỷ 21. Khổ thay do chuẩn bị không kỹ
/ Không khả năng chuẩn bị / Không
người chuẩn bị... nên đă phải lâm
hận với ngày 30/4/1975. Truyện
ngắn Para Bellum của Nghiêm Sỹ Tuấn mấy
người đă đọc, kể cả
người ngồi ở Dinh Độc
Lập, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực
VNCH?! Không hiểu ở Mỹ có ai đọc, hiểu
đủ, đúng nghĩa, thực hiện
vận động từ thành ngữ
nầy không? (hết trích)
Tôi phải thú
nhận bài viết về NST của Phan Nhật Nam là
một trong bài hay hiếm hoi. Theo tôi biết ông Phan là nhà
văn quân đội dầy dạn kinh nghiệm trong
trường văn trận bút, đồng thời ông
cũng là một người lính chiến chuyên nghiệp có
kiến thức văn hoá cao, nhưng trên hết thảy
ông có quá nhiều kinh nghiệm với CS trên bàn hội
nghị khi trao trả tù binh đôi bên (nổi tiếng qua
tác phẩm “Tù binh và Hoà b́nh”, 1974), và nhất là 14 năm
đoạ đầy trong lao tù CS sau 1975.
Chính v́ thế
tôi thật tâm đắc khi đọc đoạn sau
đây của họ Phan đă có một nhận xét tổng
quan về hai tiểu phẩm nổi tiếng của NST là
“Những người đi t́m mùa xuân” và “Para Bellum”:
H́nh 2:
Nghiêm Sỹ Tuấn, người thứ hai trong hàng,
trước giờ lên máy bay cho một Saut nhảy dù
bồi dưỡng [tư liệu bác sĩ Vũ Khắc
Niệm & Trang Châu]
(trích)
Nghiêm
Sỹ Tuấn không viết những ḍng chữ không
nội dung. Nghiêm Sỹ Tuấn không nói những lời
nói suông... Từ hỗn loạn Sài G̣n sau 1/11/1963, anh có
một lập trường rơ rệt,
phản đối mọi cuộc xuống
đường, dù ở phe nhóm tôn giáo nào. Muốn
cách mạng ư? Trước hết cách mạng
bản thân ḿnh trước. Anh tiên tri, dự
đoán, viết ra đủ cảnh tượng
hỗn loạn vô nghĩa sau một sự
kiện gọi là “cách mạng / cách mạng xă
hội chủ nghĩa”: Giữa một
thời thế, xă hội vật chất
đang lên, (giá trị) tâm hồn tinh thần dần đi
xuống. Anh là một trong những
người cuối cùng chống đối lại.
Anh viết ra lời chỉ rơ ngọn nguồn bi
kịch Việt Nam, nói rơ những mưu toan sau
hàng rào danh từ gọi là “Cách mạng, dân chủ,
độc lập” mà phía cộng sản luôn
sử dụng và sử dụng có hiệu
quả... Bác nông phu người Việt chơn
chất đă gục ngă v́ bị lôi cuốn trong
một hành tŕnh phiêu lưu mà trong thâm tâm bác chỉ
biết thương yêu gia đ́nh, mảnh
vườn, con trâu, thửa ruộng. Nhân danh
những danh từ không hề biết nội
dung kia, bác bị hy sinh! Ai cứu bác đây? Nghiêm Sỹ
Tuấn chấp nhận trọng trách này. Mùa Xuân
đối với anh không phải là nơi kinh đô
phồn hoa mà là đồng mạ xanh ŕ dải nước
phù sa loáng ánh mặt trời, dâng sương
sớm...
Nghiêm
Sỹ Tuấn cố gắng thoát khỏi thân riêng, t́m kiếm
và tạo dựng cộng hưởng nơi
người chung quanh, cụ thể những
người lính mà anh chọn lựa
đứng cùng đội ngũ trong lần t́nh
nguyện đi Nhảy Dù. Hành vi chứng tỏ
với bản thân khả năng phục vụ tha nhân
qua nhiệm vụ của một quân y sĩ (b́nh
thường) trong những hoàn cảnh nguy nan
nơi chiến địa. Anh nh́n ra rất rơ và rất
đúng Tinh Thần Para Bellum:
“Chiến
tranh chỉ xấu và tàn bạo trong mắt
những người đứng xa chỉ
trỏ. Nên người phải ngừng hay
tiếp tục nó (Chiến Tranh) với những lư
do đẹp đẽ. Cha ông chúng ta xưa kia đă
nhất định tiếp tục nó, và đă chiến
thắng, chắc v́ hiểu rằng
trật tự và kỷ luật trong
sức mạnh của Con Người.”
Nghiêm
Sỹ Tuấn thấy ra lớn lao và thất bại
của Dân Tộc Việt: “Nhưng ngàn năm và
trăm năm tranh đấu có lẽ hơn nhiều,
chúng ta thừa hưởng dễ dàng quá, nên chóng
mệt mỏi. Đến độ không dám
kiến tạo... Màu xám đất mầu, đục
lờ nước ruộng, áo tơi nón lá cày
cuốc dưới mưa phùn mù mịt giá căm,
đ̣ đồng xộc xệch tṛng trành trên mông
mênh ruộng ngập, vốn là những phong
cảnh lạt lẽo của quê hương. Bởi
v́ chúng ta đă sinh ra và sống ở đó...
Bởi có ai mất thời giờ ngồi trong
bóng tối ngắm cử chỉ tầm
thường mà trang nghiêm của người nông
phu gieo mạ, bóng tay vươn đến tận sao
trời?”
Y
Sĩ Trung Úy Nghiêm Sỹ Tuấn với ư thức
tự do, đă đi tới chọn lựa:
Tự nguyện dấn thân vào một
cuộc chiến tranh thảm khốc.
“... Làm
ǵ có xương nào phơi vô nghĩa, càng vô nghĩa bao
nhiêu càng ư nghĩa bấy nhiêu. Vả chăng
xương nào thay được xương ḿnh.
Trái đậu th́ hoa tàn. Hạt giống có chết cây
mới nẩy mầm xanh, sao nói là vô nghĩa
được... Cũng đừng buồn
thấy lan nhược nở đỏ rồi
rơi êm giữa rừng gai cằn cỗi. Cô
đơn, đau khổ, gắng chịu một
ḿnh. Có thế mới thấy hết vẻ đẹp
thanh tao của giếng êm, trăng rạng.”
Không
hề chủ trương hay cổ động
chiến tranh, nhưng cuối cùng Y Sĩ Trung Úy Nhảy
Dù Nghiêm Sỹ Tuấn đă chết do đạn
cộng sản pháo kích khi đang cố băng bó
vết thương cho một binh sĩ nơi
địa đạo Khe Sanh một ngày Tháng 4, 1968. Bác
Sĩ Tuấn ơi! Lính Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù trong
cơn cận tử đă kêu lên... Bác sĩ... Bác
sĩ?! (hết
trích)
*
Nếu có
dịp đọc truyện ngắn Mặt Trận ở
Sài G̣n trong tác phẩm cùng tên của Ngô Thế Vinh (NTV)
viết ở Dakto năm 1971, Phan Nhật Nam sẽ làm quen
với tâm sự của các chàng trai trẻ thuộc thành
phần “élite” thời đó. Ngô Thế Vinh tốt
nghiệp Y khoa sau NST ba năm, tham gia tích cực trong
nguyệt san T́nh Thương. Trong thời sinh viên NTV theo dơi
sát các biến động trong người Thượng
ở Tây Nguyên và viết bài cho T́nh Thương. Khi ra
trường NTV về làm y sĩ trưởng Liên đoàn
81 Biệt Cách Dù, để có nhiều cơ hội
tiếp cận sâu hơn nữa nan đề người
Thượng. Tôi cho là NTV, đă khéo léo dùng vỏ bọc
một nhân vật bác sĩ của một đơn vị
tác chiến nói thay cho ḿnh. Đơn vị trên đang hành
quân tại vùng cao nguyên, bất th́nh ĺnh theo lệnh chính
phủ trung ương bị bốc về thủ đô
Sài G̣n, để dẹp biểu t́nh từ đám sinh viên và
quần chúng thủ đô. Trong một lúc bất ngờ,
bị một cấp chỉ huy đơn vị trong
buổi liên hoan hỏi ư kiến, vị bác sĩ,
được đồng đội gọi yêu là “Doctor
Zhivago”, khéo léo đáp:
-
Ở những năm dài trên đại học, tôi đă
từng sống trong tâm trạng của họ và hiện
tại tôi lại đang sát cánh với các anh sống
giữa t́nh trạng gai lửa này. Tôi hiểu
được nỗi bực dọc của các anh, tôi
cũng lại cảm thông với những động
lực đấu tranh của họ. Không phải hoàn toàn
vô lư khi họ phải bỏ cả sự học, hy sinh
cả tương lai để dấn thân vào những
cuộc tranh đấu …
Tác giả
Mặt trận Sài G̣n kể tiếp, một vị chỉ
huy trung cấp (trung tá) vốn được tiếng là
“ít nói và kín đáo” (sic), đột nhiên đặt ra
một câu hỏi “ngộ nghĩnh” (sic), nhưng tôi cho là “triệt
buộc”, bởi không cho phép “Doctor Zhivago” lư luận quanh co
không đi vào trọng tâm (beat around the bush):
-
Thế bác sĩ tính sao khi chúng tôi có lệnh tấn công vào
ṿng thành trường đại học Y khoa ?
Mọi
người mỉm cười chờ đợi. ông Bác
sĩ b́nh thản đáp:
- Ở
trường hợp đó, dĩ nhiên tôi chẳng thể
làm ǵ được hơn là đeo mặt nạ chống
hơi cay, lái xe tản thương và săn sóc cho cả
hai phía … Nhưng vấn đề đặt ra là sau đó
…
Ông bác sĩ
giải thích rơ hơn:
-
Nếu rơ ràng nhiệm vụ được giao phó là
sự có mặt lâu dài ở Sài G̣n, tôi sẽ xin rời
đơn vị để về một bệnh viện
nào đó trên Cao nguyên; mặc dù trước đây tôi
vẫn tâm niệm rằng đơn vị này là nơi duy
nhất tôi đă lựa chọn cho suốt thời gian quân
ngũ của ḿnh.
Tâm sự
“lực bất ṭng tâm” khi bị giam hăm trong hoàn cảnh bí
bức không lối thoát ấy đă được NTV bóc
trần ở đoạn cuối truyện:
“Đổi
một không gian không xa những người lính chiến có
cơ hội hiểu rằng, trên đời này không
phải chỉ có những buồn thảm của một
cuộc chiến tranh làm họ điêu đứng, với
ŕnh rập của nỗi chết cùng nỗi khổ
cực của đám vợ con nheo nhóc, mà hơn thế
nữa, giữa quê hương c̣n có một thứ xă
hội trên cao lộng lẫy sáng choang và thản nhiên
hạnh phúc. Cái thế giới khác xa họ, chỉ có ngào
ngạt hương thơm và những hưởng thụ
thừa mứa. Của một đám người kêu gào
chiến tranh nhưng lúc nào cũng ở trên và đứng
ngoài cuộc chiến ấy. Rồi những người
lính bơ vơ tự hỏi, cầm súng họ bảo
vệ cái ǵ đây ?
(…)
Người lính chỉ ao ước được
cầm súng chiến đấu cho tổ quốc, hy sinh cho
một lư tưởng cao cả, một chính nghĩa sáng
ngời mà khỏi cần bận tâm suy nghĩ điều
ǵ. Nhưng bây giờ họ hiểu ra rằng, đă
thất lạc và qua rồi sự b́nh an giả tạo sau
những mỏi mệt trở về từ rừng rú.
Rằng ngoài chiến trường súng đạn quen
thuộc, họ c̣n phải đương đầu
với một trận tuyến khác mỏi mệt hơn –
đó là cảnh thối nát bất công của xă hội mà
dân tộc đang phải hứng chịu trong tối
tăm tủi nhục.
Từ
ba mươi năm nay, đă và đang có quá nhiều
anh-hùng-của-chiến-tranh trong khi lại quá thiếu
vắng những chiến sỹ xă hội. Vậy phải
lựa chọn chiến trường nào ? Rằng không
phải chỉ ở chốn xa xôi biên cương mà
đích thực chiến-trường thách-đố
của họ phải là ở Sài G̣n.”
Cần gợi
lại một số điều quan trọng nhưng khôi
hài và nhiều đắng cay ở đây là cái giá mà tác
giả bút kư ngắn trên phải trả ông bị Bộ Nội
vụ đích danh truy tố ra toà chiếu theo điều
28 về qui chế báo chí thời đó: “có luận
điệu phương hại đến trật tự
công cộng và làm suy giảm kỷ luật, tinh thần
chiến đấu của quân đội”! Ông chủ
nhiệm tập san Tŕnh Bày cho đăng bài viết trên
số 34 cũng bị vạ lây, phải vác chiếu ra toà
cùng tác giả.
Các luật
sư danh tiếng tận t́nh bào chữa, biến đó
thành một vụ án văn nghệ, không vi phạm qui
chế báo chí thời chiến. Luật sư c̣n viện
dẫn tác phẩm Ṿng Đai Xanh (VĐX) đoạt
giải văn học tổng thống ra làm bằng
chứng hùng hồn biện họ cho tác giả. “Dơ cao
đánh khẽ” với mục đích “dằn mặt” tác
giả và gỡ thể diện cho chính phủ, chánh án phiên
toà vẫn kết y án, nhưng phạt án treo 100,000
đồng tiền vạ, và bồi thường một
đồng bạc danh dự cho Bộ Nội Vụ !
Rơ ràng “trung ngôn
nghịch nhĩ”, nên NTV bị chính quyền trung ương
dằn mặt bằng toà án, nhưng không dám mạnh tay,
bởi biết tác giả “thuộc dạng không vừa”, có
uy tín trong giới văn nghệ, nhận được
sự ủng hộ nồng nhiệt của các bạn
văn. Bởi giới cầm bút đă chứng kiến cái
nghiệp văn chương “lận đận” của NTV
qua VĐX. Tác giả phải tự kiểm duyệt
rất nhiều để “đứa con tinh thần”
được hạ sinh đúng nơi đúng lúc, nhằm
đối kháng với đám văn sĩ cô đầu
người Mỹ. Lại phải vắng mặt trong
buổi phát giải thưởng văn chương cao quí,
bởi đang bận hành quân nơi xa không về
được.
Trong lúc NTV
cố vùng vẫy phản kháng qua văn chương
hồi đầu thập niên 70, NST ở giữa thập
niên 60 cũng trăn trở khôn nguôi. Rất tiếc ông
chết quá sớm, ít chứng kiến những thối nát
xă hội ngày một nhiều, gây bức bối cho
người dân. Thuở ấy ông vẫn tin vào cái gọi
là trật tự và kỷ luật.
(trích)
Người
thứ ba: Mày ngồi yên quan sát nào hơn
được ai. Để trở về quay
ngược mũi dao trong vết thương đă
sâu rộng sẵn. Xắn tay áo lên, làm
mắt kia khiếp phục, bóng nọ hết
cười trơ. Và mọi mấp mô ồn ào thành
một sức mạnh nhịp nhàng. Biết đi
tới nơi ḿnh muốn.
Người
thứ nhất: Được thế c̣n ǵ
đáng nói. Nhưng lửa cháy qua rồi, vụn tan
ngọc đá, c̣n đống tro vô dụng, bắt
đầu tự chỗ nào? Chúng ḿnh đang ở
trong một t́nh trạng hỗn tạp, chẳng ai
hơn ai, như mày vừa nói. Đấy mới
là cái khó, cái khổ của những ngày mới qua
đi đă cho thấy rơ. Hăm hở mà không nhịp
nhàng, sẵn sàng lại không sửa soạn.
Người
thứ ba: Sửa soạn với sẵn
sàng. Cứ như mày mấy chốc mà đống tro
vô dụng đă cao bằng núi. Lúc ấy chính mày
mới không biết bắt đầu tự chỗ
nào. Mày sợ?
Người
thứ nhất: Đúng thế, tao sợ chính ḿnh
không muốn và không dám vượt nổi hơn ai,
vượt nổi hơn ḿnh. V́ thế mà nhiều
người sợ hơn nữa, sợ
ngay cả sự an lạc. Không dám ước
mơ, không dám muốn có.
Người
thứ ba: Sao lại thế được? Hai
mươi năm chưa đủ, mày c̣n muốn bao
nhiêu?
Người
thứ nhất: Tao đâu có ư nói thế. Chiến tranh
chỉ xấu và tàn bạo trong mắt những
người đứng xa chỉ trỏ. Nên
người phải ngừng hay tiếp tục nó
với những lư do đẹp đẽ. Cha ông
chúng ta xưa kia đă nhất định tiếp tục
nó, và đă chiến thắng, chắc v́ hiểu
rằng trật tự và kỷ luật
trong sức mạnh con người là một
cảnh tự nó đẹp, dễ làm cảm
động, dễ làm thán phục. Nhất là khi có
những sức mạnh bên ngoài để gây xáo
trộn trật tự và kỷ luật
ấy. (hết
trích)
*
Đây chính là
điểm mấu chốt khiến tôi bất đồng
quan điểm với NST. Tôi cho là ông đă cố t́nh
biện luận “ngược xuôi” cho sự chọn lựa
sẽ tham gia tích cực vào cuộc chiến, nói khác đi
t́nh nguyện gia nhập một đơn vị quân
đội thiện chiến nhất là binh chủng
Nhảy dù, cho dù trong ḷng c̣n nhiều băn khoăn
trước các cảnh tượng “độc tài gia
đ́nh trị”, nối tiếp là giai đoạn quân
hồi vô phèng với một đám tướng tá “cá mè
bằng đầu”, không ai phục ai, thi nhau làm loạn
chính trường miền Nam, gây mất đoàn kết
trầm trọng trong quân đội, chính giới, tôn giáo, học
đường và cả đám đông quần chúng ở
đô thị và vùng quê toàn miền Nam. Dĩ nhiên CS đă
thừa cơ nước đục béo c̣, làm t́nh thế
thập phần rối rắm, do hoả mù giăng mắc
nơi nơi, chính tà khó phân biệt. Ông có phần “nguỵ
biện” khi cho rằng Trật Tự Và Kỷ Luật
sẽ tạo sức mạnh, tức đoàn kết dân
tộc, nhất là khi có sự hiện diện của các
yếu tố ngoại lai can thiệp thô bạo vào nội
t́nh đất nước !
Không ai là không
thấy rơ rằng Thân Phận Nhược Tiểu đă
biến dân tộc và đất nước ta bao năm qua
trở nên Con Cờ Thí trên bàn cờ thế giới.
Sức mạnh nội tại không thể đến
bằng giải pháp mang danh là trật tự và kỷ
luật để ổn định t́nh thế, làm đà
cho mọi thăng tiến trong mọi lănh vực xă
hội.
Việt
Cộng xưa nay ra sức vận động đoàn
kết dân tộc sau lưng chúng để chống
ngoại xâm, nhưng khi cướp được chính
quyền chúng áp dụng ngay độc tài toàn trị,
bịp bợm dân chúng hai miền Nam Bắc lại lao vào
chiến tranh gọi là “chống Mỹ Nguỵ cứu
nước”! Nắm gọn cả nước vào năm 75,
CS vẫn tiếp tục vận động đoàn kết
sau lưng chúng, để có ổn định đất
nước nhằm phát triển kinh tế, làm bàn
đạp cho phát triển chính trị … Nhưng rồi
chỉ tiến đến giới hạn “dân chủ trong
đảng CS” ! Đảng viên được phép làm giàu
và những kẻ giàu có được tham gia vào
đảng CS hay/ và chính quyền qua giới thiệu
của Mặt trận Tổ Quốc, một công cụ
đắc lực của đảng CS. Hệ quả CS
tạo nên các nhóm lợi ích, thành viên các nhóm này đa
phần là đảng viên trung ương, thao túng và lũng
đoạn đất nước toàn diện.
Tổ tiên ta sau
bao phen thành công chống ngoại xâm phương Bắc,
nhưng sau đó lại phải gấp rút t́m kiếm hoà
b́nh không thông qua “chuẩn bị chiến tranh”, mà bằng
giải pháp ngoại giao mềm dẻo (flexible). Đó là
sự triều cống hàng năm và xin làm chư hầu kẻ
thù phương Bắc để được yên thân.
Một sự hoà giải (reconciliation) tạm thời
với đối phương, để chuẩn bị
cho một cuộc chiến đấu chống ngoại xâm
nối tiếp. Đồng thời nhanh chóng t́m kiếm
một sự đồng thuận giữa chính quyền với
dân, như trong Hội nghị Diên Hồng đời
Trần, làm sức mạnh kháng cự mọi đe doạ
an nguy đất nước.
Rơ ràng là
để giải quyết xung đột về quyền
lợi, các bất đồng nội bộ với tham
vọng nước lớn nuôi dă tâm “cướp”
nước bé, không thể chỉ bằng giải pháp
chuẩn bị chiến tranh, mà ưu tiên trước
mắt vẫn là giải pháp ngoại giao qua Đối
Thoại với kẻ thù, đồng thời trong
nước cũng phải cố gắng t́m mọi cách Hoà
Giải với nhau thông qua đối thoại, để
giải toả mọi xung khắc, nhằm đạt
được các Đồng Thuận Dân Tộc (national
consensus) trên các nét lớn, làm bàn đạp tạo nên
những sức mạnh thần kỳ qua đoàn kết
toàn dân, toàn quân.
Lư thuyết nghe
dễ dàng, nhưng thực hành rất khó. Khó từ trong
đến ngoài. Các thế lực phản động bên
ngoài đâu dễ để yên cho chúng ta giải quyết
rốt ráo với nhau. Chúng t́m mọi cách phá hoại tan tành
tiến tŕnh hoà giải hoà hợp dân tộc của ta.
Trong khi đó các bất đồng xung đột nội
bộ không thể nào giải toả trong một ngày
một giờ. Đó là chưa kể rất khó t́m ra
thiện chí của các phe nhóm khi ngồi lại với nhau
để đối thoại thẳng thắn, cần
phải đặt quyền lợi tối thượng
quốc gia, dân tộc lên trên hết.
Chính v́ thế
sau này tôi nhận thấy giải pháp của cụ Phan Tây
Hồ là khả thi hơn cả: nâng cao dân trí, rồi
cải tiến dân sinh, làm nền móng vững chắc cho
cách mạng dân chủ, dân sinh ! Mấy thập niên sau
thời Chiến tranh Lạnh, các cuộc cách mạng
khắp thế giới cho thấy, cách mạng chỉ
thực sự thành công ở nơi nào dân trí cao. Chẳng
hạn ở một số nước Đông Âu cựu CS,
đặc biệt như Tiệp Khắc, Hung và Ba Lan.
Cần nói thêm Tiệp Khắc đă chia làm hai thành Cộng
hoà Tiệp (Xéc) và Cộng hoà Khắc (Slovak) vào đầu
thập niên 90 trong hoà b́nh, làm mẫu mực cho toàn thế
giới. Sau khi chia tay cả hai nước được
chấp thuận vào Liên Âu dễ dàng; Xéc vẫn lưu hành
đồng tiền cũ, trong khi Slovak chuyển sang
đồng Euro.
Thời Hậu
Chiến tranh Lạnh kể từ thập niên 90 trở
đi tạo ra một “Trật tự thế giới
mới” (New world order). Michael Gorbachev và George H.W. Bush sử
dụng cụm từ ngữ trên để xác định
chấm dứt t́nh trạng lưỡng cực đối
đầu giữa hai phe Tư bản và Cộng sản,
với kỳ vọng phát sinh tinh thần cộng tác
giữa hai siêu cường số một thế giới.
Nhưng sau Chiến tranh Lạnh lại nảy nở ra các
lực lượng và kết hợp mới, biến
chuyển t́nh h́nh thế giới thành t́nh trạng Đa
Cực (Multipolar status). Kể từ đó đến nay
người ta chọn khuynh hướng Đối
Thoại, Hoà B́nh, Hợp Tác, Lợi Nhuận, để
mọi bên đều có lợi! Thực tế ra sao, xin
thử phân giải một chút như sau.
Chấm dứt
Chiến tranh Lạnh đồng nghĩa với sự
sụp đổ bất phản hồi (irreversible) của
thế giới Cộng Sản nói chung của Nga nói riêng, nghiễm
nhiên biến Mỹ thành siêu cường duy nhất trên
thế giới. Dĩ nhiên Mỹ chả dại ǵ “cờ
đến tay mà không phất”, như tổng thống Bush
con từng tuyên bố thẳng thừng, rằng “không có ǵ
thay thế được vai tṛ lănh đạo của
Mỹ” (“There is no substitude for American leadership”) ! Nói trắng
ra các lănh đạo Mỹ tự coi ḿnh là trung tâm quyền
lực duy nhất thế giới, nghĩa là chỉ từ
lưỡng cực sang đơn cực (unipolar status).
Đây là cội nguồn của các xung đột mới
trên thế giới, giữa Mỹ và các lực
lượng mới trỗi dậy thay chỗ Liên Xô,
điển h́nh như Tàu cộng, Liên Âu.
Hoà b́nh
thường được trang trọng đề
cập, nhưng thực chất chỉ là bức b́nh phong
cho các mưu đồ chính trị đen tối. Như
ở kỷ nguyên nguyên tử trong thập niên 50-60-70, siêu
cường Mỹ tuyên truyền khắp thế giới
“nguyên tử phụng sự ḥa b́nh”, dẫn đến các
cuộc chạy đua vũ khí nguyên tử giữa các
cường quốc, để rồi khi thấy quá tốn
kém và quá nguy hiểm hai siêu cường Mỹ và Nga tự
động “xuống thang” bằng cách bắt tay làm hoà
để chính danh “chôn búa” nguyên tử qua cái gọi là
giải trừ quân bị thời Reagan và Gorbachev. Từ hai
anh to đầu này áp lực lên các anh yếu hơn
phải nghe theo ḿnh.
Người ta
không những giải trừ vũ khí hạt nhân, mà
hiện nay giải trừ cả điện phát sinh từ
nguyên tử lực, bởi “rác thải” từ các thanh nguyên
tử cũng nguy hiểm không kém. Đó là chưa kể gây
đau đầu toàn thế giới khi xảy ra các tai
nạn lớn bất ngờ, như nổ ḷ nguyên tử
trong Thảm hoạ Chenorbyl (Chernobyl disaster) năm 1986 ở
Ukraine thuộc Liên Xô, hay do thiên tai như động
đất ngoài biển khơi gây sóng thần (Tohoku
earthquake and tsunami) năm 2011 ở Nhật.
Cái hoạ
hạt nhân cũng như các loại vũ khí
được xếp vào loại “giết người hàng
loạt” (WMD/ weapons of mass destruction) vẫn không thể
ngăn ngừa hữu hiệu, bởi nó đă lọt
khỏi tầm kiểm soát của các siêu cường,
được xuất khẩu bí mật, có thể cả
dưới h́nh thức “bán chính thức” đi nhiều
nơi. Đáng sợ hơn nữa khi chúng rơi vào tay các
nhà độc tài, các nhóm khủng bố quá khích. Kịch
bản “âm binh vật phù thuỷ” khiến Mỹ và
đồng minh Tây Âu lo lắng đến mất ăn
mất ngủ. Cả thế giới dưới sự
khởi xướng và lănh đạo của Mỹ lao vào
tṛ chơi “chống khủng bố quốc tế” ! Cụ
thể để săn lùng và tiêu diệt các nước và
các tổ chức Hồi giáo quá khích, chuyên sử dụng
các phương pháp khủng bố tàn bạo (cướp
máy bay, đánh bom tự sát nơi đông người…) làm
vũ khí tranh đấu để chống lại Mỹ
và đồng minh, Mỹ đă t́m cách đối thoại
và kết thân với các trùm khủng bố như Tàu
cộng và Việt cộng ... Đúng là “cữ sôi ăn
nếp”. Mỹ và đồng minh phương Tây “treo
đầu dê bán thịt chó” ! Hậu quả tất yếu
c̣n lâu mới có hoà b́nh thế giới.
Nguyên Sa có bài
thơ sâu sắc về hoà b́nh có tựa đề Thằng
Sỹ Chết: Đức Giáo hoàng xác nhận
rằng sắp có hoà b́nh / Đức Tăng thống xác
nhận rằng sắp có hoà b́nh / Tổng thống Johnson
xác nhận rằng sắp có hoà b́nh/ Tổng thống Kosygin
xác nhận rằng sắp có hoà b́nh / Ông Tổng thư kư
Liên Hiệp Quốc U Thant xác nhận rằng sắp có hoà
b́nh / Các vị nguyên thủ các nước Âu, Á, Phi, Mỹ,
Úc đều xác nhận rằng sắp có hoà b́nh / Tại
sao mày để nó xuyên qua tim / Tại sao mày để nó
chảy ra hết / Tại sao mày để nó cứng
đơ lại / Tại sao mày nằm song song với
đường tiếp tuyết của trái đất
/ Tại sao mày chết, hả Sỹ / Tại sao mày
không chờ, hả Sỹ / Hăy trả lời / Đức
Giáo Hoàng và Đức Tăng Thống / Quí vị Thủ
tướng và quí vị Tổng thống / Tại sao mày
không chờ / Hăy trả lời lễ phép / Nghe Sỹ.
Tóm lại, cái
chết của Sỹ, bạn nhà thơ Nguyên Sa, của
Nghiêm Sỹ Tuấn, của triệu triệu người
Việt, của gấp nhiều lần hơn thế trên
toàn thế giới, có ư nghĩa ǵ cho hoà b́nh thế giới
? Tôi đoan chắc những kẻ thấp cổ bé
họng, dù thông thái như đàn anh Nghiêm Sỹ Tuấn,
sẽ chẳng bao giờ t́m ra câu trả lời chính xác
trong cơi đời ta bà này. Thậm chí ông cha chúng ta tái sinh
cũng đành thúc thủ. Ngày xưa ta hầu như ta
chỉ phải bận tâm đối đầu với
một kẻ thù truyền kiếp là phong kiến
Phương Bắc. Ngày nay trái đất bé dần
lại, không gian gần như phẳng, chúng ta phải
chống lại chẳng những Trung Hoa, mà cả với
các lực lượng phản động quốc tế,
trong đó có các nước được từng
được xem như đồng minh chí cốt.
LẠI MẠNH
CƯỜNG
Amsterdam, 05/ 2019
– 07/2020