Thư từ ngoài mặt trận Chiến dịch Desert Shield-Desert Storm
Ngày 8 tháng 11 năm 1990 N. đáp máy bay về lục địa Mỹ đi công tác cho Sư đoàn 1 Thiết Giáp Hoa Kỳ. Sau khi làm thủ tục nhập khách sạn N. lên pḥng ngủ. Lúc đó là 9 giờ 45 tối rồi. Sau khi tắm xong, N. vặn Tivi lên xem tin tức tí ti trước khi ngủ, đang ngái ngủ, N. giật ḿnh khi nghe tin Phát ngôn viên báo tin rằng Tổng Thống Bush quyết định gửi thêm 200.000 quân sang Trung Đông, sau đó là danh sách các sư đoàn sẽ di chuyển ra mặt trận. N. thấy sư đoàn của N. có tên trong đó. N. nghĩ thầm v́ nếu cần đánh nhau với Thiết giáp Iraq, lẽ dĩ nhiên phải cần tới Sư đoàn của N. v́ Sư đoàn 1 Thiết giáp được trang bị với thiết giáp tối tân nhất của Hoa Kỳ và là Sư đoàn “nặng” (heavy division) nhất trong Quân lực Hoa Kỳ. N. tuy vậy cũng hoang mang không biết là chừng nào phải di chuyển sang Saudi Arabia (S.A.) đây?
Hiện tại N. đang đi công tác, đúng ra là không cần phải liên lạc với cấp trên, nhưng sáng hôm sau N. thấy cần phải điện thoại cho Đại tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn để nhận lệnh. Khi gọi, N. được tin là cứ hoàn tất công tác sự vụ lệnh không phải về ngay. N. bèn yên chí tiếp tục công tác. Sau đó, N. gọi cho gia đ́nh biết là không phải về lại Đức ngay. N. không lo ǵ lắm v́ bận tâm với công tác, nhưng càng hoang mang v́ điện thoại vợ con, cùng gia đ́nh anh chị em tới tấp gọi lo lắng hộ cho N. Đúng ra th́ N. cho chả có ǵ đáng ngại cả, nhưng ngày đêm qua những cú điện thoại nên N. cũng bị ảnh hưởng lo lắng không ít th́ nhiều.
Sau một tuần công tác, N. như chương tŕnh đă định trước được nghỉ thêm một tuần nữa để thăm gia đ́nh con cái. Nghĩ rằng, lúc trước đă gọi về sở nhận lệnh cứ tiếp tục công tác, N. bèn tiếp tục bay sang Gia Nă Đại thăm mộ ông cụ và bạn bè ở Montréal. Đang hàn huyên với bạn cũ, th́ con gái của N. gọi từ Hoa Kỳ sang báo là Đại Tá Tham Mưu Trưởng muốn nói chuyện với N., N. bèn gọi lại th́ được biết là ông muốn N. về với đơn vị càng sớm càng tốt.
Thế là N. bèn cắt ngắn phép nghỉ và bỏ dở mục thăm viếng bạn bè và gia đ́nh. Cũng may lúc đó tinh thần ái quốc của dân Mỹ cũng khá cao nên khi đổi vé máy bay về Mỹ và sang Đức, N. không gặp khó khăn ǵ cả. Đúng ra là v́ đổi ngày giờ quá ngắn hạn phải trả một số tiền phạt, nhưng sau khi N. tŕnh bày t́nh cảnh phải trở về đơn vị gấp, các hăng máy bay rất vui ḷng đổi vé mà không bị phạt ǵ cả.
Về đến đơn vị ngay trưa hôm đó, N. đi vào sở tŕnh diện ngay và được biết là có thể phải đi S.A. trong ṿng hai hay ba tuần. Thường thường th́ Bộ Tham Mưu chỉ họp một lần một tuần, nhưng nay v́ t́nh h́nh khẩn trương, Bộ Tham Mưu họp một ngày hai lần, sáng lúc 8 giờ và chiều lúc 5 giờ. Công việc của N. là phải lo điều động quân số tăng gia, sửa soạn tài liệu y khoa pḥng ngừa ngoài sa mạc, tổ chức nhóm chích ngừa bệnh, sửa soạn thuốc men cho sư đoàn và huấn luyện cấp tốc các quân nhân y tế mới bổ túc tới. Lúc ḥa b́nh N. chỉ có bẩy bác sĩ quân y (kể cả N.) cho cả sư đoàn, nay được tăng lên tới 20 bác sĩ một cách đột ngột.
Ngay chuyện tăng thêm bác sĩ cũng đă rắc rối rồi. Y sĩ trưởng Quân đoàn cho danh sách và các đơn vị các tân bác sĩ, nhưng v́ các vị tân bác sĩ này ở rải rác khắp Âu châu, nên liên lạc rất khó khăn. Có bác sĩ th́ rất hăng hái nhận lệnh tŕnh diện ngay, nhưng có vài ba anh chị th́ cứ lờ đi như là không nhận lệnh điện thoại và kéo dài thời gian tới tŕnh diện. V́ sau được biết, có một chị bác sĩ cố trốn tránh và gây chuyện phản đối với cấp trên, nhưng cuối cùng cũng không xong.
Sau đó là có màn chỉ định các vị tân bác sĩ này đi xuống đơn vị. Lẽ dĩ nhiên là bác sĩ ở Trung đoàn là khoẻ hơn và ít nhất an toàn hơn ở Tiểu đoàn, nên có một bác sĩ lên phản đối tại sao N. bắt hắn ta phải đi làm ở Tiểu đoàn. N. giữ lập trường và nhất định không thay đổi lại quyết định. Sau khi hắn ta đưa ra một vài lư do không được vững cho lắm, hắn ta bèn chịu thua rút lui trong hậm hực, không thuyết phục được những thay đổi thuyên chuyển.
Sau khi tập họp đủ bác sĩ, N. bèn gửi các bác sĩ này đi học khoá huấn luyện cấp tốc học cách chữa trị và chống vũ khí hoá học (Biochemical Warfare).
Từ ngày trở về Đức trở lại, đời sống N. quay cuồng với sư đoàn, họp lên, họp xuống, không c̣n ngày nghỉ cuối tuần ǵ cả. Lúc đó là gần lễ Giáng Sinh, nhưng ai nấy chả bận tâm ăn lễ ǵ hết.
Tuy vậy, khi gần tới ngày đáp máy bay sang S.A., sư đoàn cũng cho tất cả nhân viên nghỉ hai ngày để vui họp với gia đ́nh. Lúc đầu, ai nấy cũng sẽ tưởng đi ngay trong ṿng hai -ba tuần, nhưng thực tế, di chuyển cả Sư đoàn Thiết Giáp đâu có thể nhanh như vậy, nên phần đông sư đoàn được ở lại qua lễ Giáng Sinh mới đi.
Ngày 27 tháng 12, N. thực sự đáp máy bay, sau khi từ giă với vợ con. Chuyến đi ra phi trường Đức th́ rất buồn thiu, trời th́ tối mưa phùn ảm đạm lành lạnh, vẫn c̣n nhạc Giáng sinh phảng phất, đèn giáng sinh lẫn cây thông c̣n đó, ngoài cổng trại lính vài người biểu t́nh trăng biểu ngữ “Nicht Blut Fur Oil” (“Không đổ máu v́ dầu xăng”).
Trên phi cơ binh lính hay sĩ quan cùng ở chung, phần nhiều im lặng không ai nói năng ǵ cả, chắc v́ lo âu v́ không biết tương lai sẽ ra sao. N. có gợi chuyện với một hạ sĩ quan da trắng th́ anh ta nói là nước Mỹ đă đối xử với anh ta rất tốt nên khi nếu bị xui xẻo ǵ đó anh ta không ân hận ǵ cả cho là Tổ quốc trên hết, tinh thần ái quốc anh ta rất cao. N. cũng nói chuyện với luật sư trưởng của Sư Đoàn là Trung tá J.A. ông ta không lấy ǵ mà lo âu cả, ông ta đă từng phục vụ ở Việt nam rồi. (sau đó độ 5-6 năm sau ông ta được thăng chức Thiếu tướng). Ngược lại nữ Đại úy Y sĩ L.S. chuyên môn về thần kinh tâm lư dưới quyền của N. th́ ngồi co rúm ở một góc ghế không nói năng ǵ cả.
N. tới phi trường Dahran vào khoảng 9 giờ sáng. Lúc rời khỏi Đức quốc, khí hậu rất lạnh, nên khi gần S.A., ai nấy đều cởi bỏ áo lạnh, và vén tay áo lên, v́ nghĩ rằng ở sa mạc rất nóng. Máy bay không đáp xuống phi trường ngay được, v́ có tin phi trường đang bị báo động v́ hoả tiễn Scud, nên phải bay ṿng ngoài xa tới hơn một giờ đồng hồ sau mới đáp xuống. Ai nấy chả bảo nhau ǵ cả nhưng gần như tất cả đều lấy áo jacket che đạn (gọi là flakjack) mặc vào.
Xuống phi trường th́ có vài hạ sĩ quan tới đón tiếp, phát cho mỗi người một chai nước suối và chỉ dẫn đi ra xe buưt để tới trại đóng quân tạm ISA (Intermediate Staging Area). Trông thấy các Hạ sĩ quan đó mặc đồ ấm lạnh và không mặc áo flagjack, ai nấy đều ngạc nhiên, không hiểu tại sao. Chỉ một lúc sau đó, sau khi đứng chờ đợi đoàn xe buưt khởi hành, ai nấy đều lạnh run v́ có một luồng gió lạnh thổi nhè nhẹ không ngừng. Thế là tất cả lại bèn lục ba lô ra, lấy áo lạnh ra mặc. Hỏi tại sao không mặc flakjack, th́ họ trả lời đâu có đánh nhau gần đó ǵ đâu từ lâu rồi. 12 giờ trưa, đang chờ đợi khởi hành th́ tiếng oang oang vọng từ loa phát thanh như là tiếng vọng cổ nhi nhô như của Ấn Độ hồi trước, quay nh́n chung quanh, N. thấy các tài xế xe buưt người Ả rập đang quỳ gối cúi rạp người hướng Mecca mà cúng khấn.
Khoảng 1 giờ trưa th́ đoàn xe di chuyển ra ISA. Trên đường xa lộ đi qua thành phố Damman nhà cửa rất khang trang. Hầu như các nhà đều là villa tường trắng, có bốn bức tường bao chung quanh kín mít. Đúng là một xă hội kín mít và khe khắt như được kể là không bao giờ đàn bà dù chưa hay có chồng không được phép ra ngoài phố một ḿnh mà không che mặt. C̣n được nghe, nếu được mời vào một gia đ́nh Ả rập th́ chỉ được tiếp xúc với đàn ông chủ nhà và các con nhỏ mà thôi. C̣n các phái nữ th́ ở trong cung cấm. Trông thấy kiểu cách kiến trúc nhà cửa kín mít tường bao chung quanh, N. thầm nghĩ đời sống gia đ́nh người Ả rập như vậy rất khó khăn, khe khắt, không ai biết chuyện ǵ xảy ra trong gia đ́nh họ được. Nói là sa mạc, nhưng đường phố trong tỉnh có nhiều cây cỏ dọc theo bênđường. Có tiền là có cây mọc N. nghĩ vậy. S.A. có vài hăng lọc nước biển ra nước ngọt rất lớn, thành ra nước không khan hiếm lắm và có đủ nước mà tưới cây cỏ.
Qua khỏi tỉnh, đường xa lộ rất tốt như xa lộ ở bên Mỹ, cũng có bảng chỉ đường xanh trắng rất rơ rệt. Bên vệ đường thỉnh thoảng thấy vài cây palm và có vài con lạc đà thản nhiên ăn những bụi cây nhỏ ở sa mạc.
Độ hai tiếng đồng hồ sau, đoàn xe buưt tới ISA cách biên giới Iraq độ 300 cây số. Ngoài cổng có bảng đề “Desert Inn, Free Breakfast and Bed, Always Have Helping PPlace for a Few More”. Đó là một trại lính bao bọc chung quanh bởi dây kẽm gai.
Những vị nào lúc trước có ghé qua ở Guam th́ cũng giống như vậy. Hàng hàng dẫy lều vải (tent) ngay ngắn với hai dọc nhà tắm (shower stands) gỗ và nhà vệ sinh. Bên kia sân cát -chỗ nào cũng toàn là cát cả- là vài tent dùng làm cơ sở hành chánh, chỉ huy, tent họp và field PX. Cũng có một chỗ rộng lớn có bàn ăn picnic ngoài trời mà xe vận tải đem đồ ăn nóng tới. Nữ quân nhân th́ ở một tent riêng, độ 15-20 người một tent.
Mỗi ngày, ai nấy được phát ba chai nước suối (độ một lít rưỡi mỗi chai) và hai gói MRE (Meal Ready to Eat) để ăn sáng và ăn trưa. Tối th́ xếp hàng ăn đồ nóng do nhà thầu đem tới. Ai muốn ăn hamburger th́ đứng xếp hàng ra một quầy xe chờ mua hamburger và French fries đang nấu tại chỗ.
Ở ISA khoảng 10 ngày N. chẳng bao giờ có hơi thừa thời giờ đứng chờ cả một cho tới hai giờ để mua một miếng hamburger mà ăn. Chỗ nào cũng có hàng dài lính xếp hàng tới lượt vào PX mua đồ hay ra chỗ gọi điện thoại dă chiến.
Ngày ngày ở ISA, N. phải đi họp buổi chiều 5 giờ rồi sáng hôm sau đi tụ họp các bác sĩ ở Trung đoàn để ra chỉ thị sửa soạn hành quân. Ba ngày sau th́ xe jeep của N. tới bến (gọi là xe CUCV), thế là N. có dịp đi cùng tài xế lái xe ra tỉnh Jubai và Damman thăm viếng các nhà thương dă chiến. Nhà thương 5th Fleet Hospital của Hải quân coi bộ là khá nhất. N. thăm bệnh của Sư đoàn bị đau ốm đang điều trị ở đó, và có trưa được mời ở lại ăn trưa khá tươm tất. N. cũng lo liên lạc với Quân y Quân đoàn về tin tức chống vũ khí sinh hoá học như nerve agent, mustard, anthrax và botulinism, sau đó N. lại phổ biến huấn luyện cho Bộ Tham Mưu và các đơn vị của Sư đoàn.
Sống trong cùng tent với N. có nhóm lính thuộc pḥng vũ khí hoá học, nên N. cũng được chỉ dẫn thêm về cách pḥng ngừa như pha chế nước rửa và quần áo mặt nạ (MOPP gear). Phần nhiều tinh thần của lính rất hăng hái, có rất ít phần tử sợ sệt. Có một anh Trung sĩ mà N. nhớ măi tên là Badwin, da trắng, lực sĩ cao lớn, trẻ trung, mặt mũi sáng sủa. Hắn ta lúc nào cũng nói là sẵn sàng ra mặt trận. Hắn ta nói là cả họ Badwin của hắn đă sống rất đầy đủ nhiều thế hệ rồi, nên nếu có mệnh hệ ǵ cho hắn th́ hắn thản nhiên chấp nhận hy sinh mặc dù hắn có vợ trẻ, con nhỏ. Quả là tinh thần ái quốc cao. Lại có một anh chàng da đen Mỹ nhưng theo đạo Muslim Hồi giáo, hắn ta lúc nào cũng trầm ngâm. Khi hỏi, hắn ta kể lể là hắn theo đạo Hồi giáo th́ những người cùng đạo không được giết nhau, làm hắn ta rất phân vân không biết phải làm ǵ mặc dầu bao nhiêu lần căi lư với Trung sĩ Badwin (như chẳng hạn, chẳng lẽ để Saddam Hussein cứ mỗi ngày lại xâm chiếm, hiếp đáp các xứ nhỏ bên cạnh, tự do hoành hành như vậy hay sao?).
Trong thời gian ở trại ISA, một anh chàng Đại uư Quân y sĩ bị trật khớp xương đầu gối khi tập khiêng băng ca. Hắn ta được chuyển qua Quân y viện về Đức, N. lại nhức đầu phải đi kiếm bác sĩ, nhất là về sau biết được là hắn ta có đau đầu gối lúc trước nhẹ, nhưng chạy chơi football th́ bị trật khớp xương chứ có tập khiêng băng ca ǵ đâu? Thế là anh ta thoát khỏi phải ra mặt trận, bề ngoài mặt th́ nói sorry sorry nhưng nét mặt th́ mừng rỡ v́ thoát khỏi chỗ hiểm nguy.
Ngày 5 tháng Giêng, cả sư đoàn di chuyển ra chỗ tập trung chiến thuật Tactical Assembly Area (TAA). Chỗ này cách biên giới 170 cây số, ngoài tầm tác xạ của pháo binh địch, nhưng cũng không tránh khỏi hoả tiễn Scud. Tuy vậy lệnh trên bắt buộc tất cả phải đội nón sắt (Kevlar) chứ không c̣n đội mũ vải như ở ISA nữa. Thành ra ai nấy có phần căng thẳng thêm không ít th́ nhiều.
Ở TAA, đời sống hằng ngày bắt đầu khó khăn hơn, sáng 5 giờ 30 đă phải chỉnh tề quân phục tác chiến, rồi phải chia nhau ra canh gác ngoài ṿng đai. Y tá và bác sĩ được miễn canh gác, c̣n tất cả từ đại úy trở xuống phải đứng gác tới 7 giờ sáng. Thiếu tá trở lên th́ phải ra Bộ Tham Mưu dă chiến làm việc. Bộ Tham Mưu dă chiến gồm có từ pḥng 1 cho tới pḥng 5 và những pḥng phụ thuộc như truyền tin, chiến tranh hoá học, liên lạc không quân, quân binh, pḥng không, tiếp liệu v.v… những pḥng này làm việc trên những xe van (5-ton expands van) sửa đổi thành pḥng làm việc có máy nóng, lạnh và máy truyền tin. Quân y sư đoàn cũng có một xe van gọi là Med Ops (Medical Operation).
N. v́ là Y sĩ Trưởng Sư đoàn, có một Y sĩ Trung tá trưởng Med Ops lo về tản thương và tiếp liệu quân y cùng những việc lặt vặt khác. Hắn ta 5 giờ 30 sáng phải ra xe van họp và làm việc. C̣n N. và hai y tá ở lại tent trở thành một trại cấp cứu khi cần.
Sau thời gian “stand to” th́ quân lính được trở về tent làm vệ sinh cá nhân hay ăn sáng. N. sau đó đi họp với Bộ Chỉ Huy đóng cách xa từ 10 cây số tới 50 cây số (dĩ nhiên khoảng cách thay đổi như vậy v́ Bộ Chỉ Huy phải “nhảy” (jump) đổi chỗ cắm trại cho địch không biết chỗ nào xác thực).
Tuy khoảng cách có vẻ gần, nhưng lái xe ở sa mạc rất khó khăn. Ai nấy đều tưởng sa mạc toàn là cát, nhưng thật ra là đất trộn với cát. Nếu mưa nhiều th́ cây cỏ sẽ dễ mọc. Nói về mưa th́ trong thời gian N. ở TAA, N. bị năm trận mưa lớn, hai lần lều vải của N. bị ngập lụt. Vũng nước lầy thường xảy ra sau mỗi cơn mưa, thành ra đêm tối đi trong trại dễ dẵm phải bùn. Không hiểu năm nay mùa mưa có khác thường hay không? Mà chỉ một trận mưa đầu, mức nước mưa đă đủ mực cao nước mưa của vùng N. đóng cả năm rồi. Đó là chưa kể những trận mưa nhỏ phất phơ, nhưng cái được là chỉ ba-bốn ngày sau là đất lại khô nhưng lại khổ v́ cát bụi. Hai lần xe HUMVV của N. bị lầy phải nhờ xe Thiết vận xa tới kéo lên.
Sẽ kể sau… Lái xe trên sa mạc phải dùng địa bàn (compass), không chính xác lắm, hay Loran. Máy Loran là một máy điện tử gắn trên xe để định hướng. Khi vặn máy lên, bấm nút, máy sẽ chỉ tọa độ hiện tại của xe đậu bằng cách phát làn sóng ra ba trạm antenne gần đó. Tọa độ bằng độ Lat Long (Latitude, Longitude), sau đó bấm tọa độ chỗ ḿnh muốn tới và máy tính cho biết hướng nào sẽ đi và cách xa bao nhiêu dặm. Lúc mới tới TAA, N. chưa được phát máy Loran, v́ số máy Loran lúc ban đầu rất khan hiếm, chỉ phát cho đơn vị cần thiết nhất như Bộ Chỉ Huy đơn vị tác chiến, xe tăng, xe cứu thương, trực thăng, nên N. và ba thầy tṛ gồm một tài xế và một Thượng sĩ Thường vụ phải dùng địa bàn.
Chỗ TAA rất rộng lớn chừng 100x150 cây số và có hai con đường chính mà thôi, gọi là đường, chính ra chỉ là một đường cát bụi do công binh cắt giữa sa mạc. Sau đó v́ nhiều xe cộ đi lại kể cả xe tăng nên làm hỏng có nhiều lỗ sụp lên sụp xuống. Khi đi họp N. phải băng qua nhiều rănh mà các xe tăng đi qua. Các rănh đó v́ là đất bùn trộn với cát nên khá cứng, đi ngang qua mà lái nhanh là sập bàn toạ là thường. Có vài lần đi họp chiều tối, khi tan họp lúc 6 giờ chiều, trời đă xẩm tối mà lệnh trên chỉ được dùng đèn mờ parking xe nên rất khó đi. Có hai lần, ba thầy tṛ N. bị lạc loanh quanh có 20 cây số mà không kiếm ra được trại N. ở. Lái một lúc là phải xuống xe ngắm lại địa bàn, nhưng cũng không xong v́ ở sa mạc đâu có điểm cao để nhận diện đâu như nhà, cây cối chẳng hạn.
Ban đêm ở sa mạc, bốn phía đều giống nhau cả. Có lúc thấy một trại, nhưng khi dừng lại hỏi rất nguy hiểm v́ không được dùng đèn sáng, chỉ được dùng đèn pin có kính lọc đỏ hay tím mà thôi. Lính gác nếu không cẩn thận hay hoảng hốt bất ngờ có thể bắn lầm lắm. Cứ tưởng tượng đang đứng canh gác tự nhiên có bóng đen từ từ đi tới giật ḿnh th́ có thể hoảng hốt bóp c̣ súng dễ như chơi, hóa ra là không phải trại N. đóng, hỏi hướng nào để đi, th́ lính gác thường thường cấp kém nhất, đâu có biết ǵ đâu. Hỏi trưởng trại th́ hắn cũng không biết ǵ luôn v́ thường thường mỗi đại đội đóng một chỗ riêng và một sư đoàn th́ có cả trăm đại đội nên ai cũng lắc đầu. Hỏi có thể nhờ điện thoại được không, th́ hắn trả lời là tối đêm có lệnh cấm sử dụng truyền tin (signal silence) tuyệt đối.
Thành ra xe N. lại loanh quanh một hồi tới khi gặp được Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn, may quá ở đó N. có quen với Tiểu đoàn trưởng, nên hắn biết hướng và tọa độ N. ở nên chỉ một chút sau là N. về đến trại được. Khoảng cách có 15 cây số mà đi mất bốn tiếng đồng hồ, thật là hú vía, v́ nếu kiếm không ra, phải đậu xe ở ngoài sa mạc chờ đến sáng hẳn đi. Chứ cứ lái xe đi măi có thể đi lạc sang đất địch, như chuyện hai anh lính Lê Dương Pháp lái xe làm sao đi lạc sang đất Iraq bị bắt làm tù binh, đă thế ngủ trên xe sẽ bị lạnh cóng. Khoảng lúc N. đóng ở TAA là mùa đông bên Saudi Arabia. Ban ngày th́ mát nhưng ban tối th́ rất lạnh, có lúc gần 0 độ Celsius, sáng ra ngoài đều thấy sương đóng đá trên xe.
Ngoài những trận mưa th́ c̣n có những trận băo cát gọi là shamal. Các trận băo cát này thường xảy vào tháng Giêng và tháng hai, lâu lâu mới có một trận kéo dài độ một ngày th́ hết. Nhưng từ tháng ba tới tháng bẩy th́ thường xảy ra hơn cứ vài ba ngày lại có và có thể kéo dài cả tuần khi đến tháng bẩy. N. rất ghét những trận băo cát này, nếu đang lái xe th́ cát mù mịt, buổi trưa lái xe mà lại không trông thấy năm thước đằng trước. Rồi bụi cát bay vào mắt làm cay, đau mắt, hít thở vào nguy hiểm cho sức khoẻ và quần áo, ghế bố, đồ vật rất bẩn v́ bụi đóng cả đống. Lều vải không cách chi nào mà làm kín mít cho cát khỏi vào được. Lại c̣n nếu không mắc đóng lều vững chắc th́ lều văi bị sập tiệm bay đi dễ như không. N. tội nghiệp nhất là đang băo cát như vậy mà lính lại đang đứng gác mà không có khăn che mặt mũi thấy mà thương hại. Có vài lần N. dừng xe lại và phát cho lính gác khăn che mặt mà N. lấy từ trong túi cấp cứu (gọi là cravate dùng để làm sling khi trật tay hay cùi chỏ).
Nói về cát bụi bay vào mắt, năm ngày hôm sau khi tới TAA, N. đi thăm các nhà thương dă chiến chung quanh. Khi tới thăm bệnh viện tản thương số 12 (12th Evacuation Hospital) th́ được biết một Đại úy Pḥng 5 bị đau mắt, khi khám ra hắn ta bị trứng con ruồi của cừu nở ra thành larvae trên mắt hắn ta. Hắn kể là vài ngày hôm trước, hắn bị bụi cát vào mắt, sau đó khó chịu nên đi khám. N. được nhân viên pḥng thí nghiệm cho xem con larvae đó ở kính hiển vi (sheep botfly). Cách chữa trị bệnh đó th́ chỉ là gắp các con đó ra th́ khỏi (đếm được gần 30 con).
Ở TAA th́ đời sống không khá hơn ở ISA, v́ ăn uống ở đây không c̣n có thầu khoán nấu đồ ăn nóng cho buổi sáng và buổi tối. Tuy vậy, thường thường (trừ những ngày không “jump” th́ phải ăn đồ MRE) th́ có một bữa ăn nóng do đầu bếp dă chiến nấu, ăn cũng tạm được. Bữa ăn nóng đó th́ có thể là bữa ăn trưa hay tối (5-6 giờ chiều). Tắm th́ tắm nhà tắm gỗ xây ba cái gộp một và đi vệ sinh cá nhân cũng vậy, chỉ có cái bất tiện là hơi xa chỗ ngủ (độ 300-500 thước), quần áo th́ giặt lấy. Chủ nhật th́ các Cha tuyên uư giảng đạo tại mỗi trại.
Về tinh thần quân lính th́ sau khi mừng hụt là Saddam Hussein chịu cho Tổng trưởng Ngoại Giao Aziz họp với Tổng trưởng Ngoại Giao Baker ở Geneve, ai nấy đều thất vọng khi hay tin điều đ́nh thất bại hoàn toàn. Tới ngày 15 tháng Giêng th́ được biết chiến tranh sẽ xảy ra. Tin đồn là nếu nghe được trên đài phát thanh hay bất cứ đài vô tuyến nào có mật hiệu “Cow boy” th́ là chiến tranh bắt đầu. Đêm 17 rạng 18 tháng Giêng, ai nấy đi ngủ, phập phồng chờ đợi. Nhưng sau đó tất cả đều ngủ đến sáng thức dậy mới biết là khoảng 2 giờ sáng, không quân Đồng minh đă thả bom rầm rộ khắp Iraq. Cả ngày hôm sau phần đông quân lính chú ư lắng nghe tin tức từng giờ một. Ai nấy đều vui mừng v́ cả ngàn phi vụ mà không có máy bay đồng minh nào bị bắn rơi và kết quả oanh tạc rất tốt.
Khi đi họp hằng ngày vào buổi sáng th́ được biết là tất cả phải đề cao cảnh giác v́ khủng bố địch. Có tin là tụi khủng bố dùng xe Toyota 4 Wheels mầu vàng đi bắn vào các trại. Lính căn gác được lệnh bắn chỉ thiên trước rồi nếu xe nào không dừng lại th́ bắn ngay.
Trong khoảng thời gian đó th́ sư đoàn cho thầu được một trạm điện thoại ATT. Trạm này được dựng ngay giữa sa mạc gồm có một disc radar lớn để nhận làn sóng điện thoại và có từ 100 đến 150 cái điện thoại. V́ thư từ rất chậm, độ ba bốn tuần một chuyến mới là thường, nên điện thoại rất đắt hàng. Ban ngày mỗi người không được nói quá 15 phút, ban đêm th́ tự do muốn nói bao lâu cũng được, điện thoại đó nhấc lên th́ có operator hỏi gọi số nào và họ sẽ liên lạc với số đó và cho trả bằng ATT credit card (giá độ chừng $16.50 cho mười phút đầu tiên). Không thể gọi thẳng được hay người nhà không thể gọi tới chỗ đóng quân được. Giá khá mắc, nhưng ai nấy đều không quản ngại trả tiền v́ khó mà có dịp gọi điện thoại v́ tùy trại, có trại phải bay trực thăng mới tới nói được mà v́ phải chờ đợi tới lượt gọi xếp hàng nhiều khi ba-bốn tiếng đồng hồ chờ đợi là thường. Được biết là mỗi ngày có chừng 5000 cú điện thoại thành ra N. thầm nghĩ ai mà có stock trong ATT lúc này là trúng số đỏ. V́ giá khá mắc nên thời gian sau trên đài phát thanh quân đội họ cảnh cáo lính đừng có lạm dụng điện thoại v́ có người phải trả cả ngàn đồng điện thoại hết sạch tiền lương.
V́ thư từ chậm trễ khó khăn, N. cũng dùng điện thoại để cho gia đ́nh biết tin cho đỡ lo âu. Về tin tức, ngoài thư từ, điện thoại, binh lính được phát báo Stars and Stripes mà đọc. Báo này thường trễ, sớm nhất là cũ ba ngày nhưng rất có giá trị v́ có rất ít, phân phát không đều, nên ai nấy khi có là ngấu nghiến đọc lấy đọc để. Như đă nói ở trên, thêm vào đó, muốn biết tin tức phải chịu khó mở radio mà nghe. Phải mua shortway radio th́ mới bắt đài BBC được, máy thường chỉ nghe được đài quân đội mà thôi. N. th́ c̣n biết khá hơn v́ phải đi họp với Bộ Tham Mưu hàng ngày nên biết t́nh h́nh cập nhật do Pḥng Nh́ và Pḥng Ba báo cáo.
Khoảng lúc đó là v́ có thể là thời tiết thay đổi có dịch cảm cúm, ho, nghẹt mũi và khan tiếng. Có thể nói một cách tổng quát là hơn nửa số quân lính ai nấy đều bị không nhiều th́ ít các triệu chứng trên. N. sau khi chữa trị cho Tướng Chỉ huy trưởng một tuần sau cũng bị lây.
Nói về thư th́ do Quốc Hội Mỹ chấp thuận th́ gửi thư về Mỹ hay Đức th́ miễn phí. Ngược trở lại Mỹ gửi sang S.A. chỉ trả giá bằng nội địa. C̣n gửi đồ th́ gửi về gia đ́nh bên Đức hay ngược lại th́ miễn phí. Nếu gửi về Mỹ th́ phải trả giá như giá nội địa.
Sau khi hân hoan về các tin oanh tạc thành công do Không quân Đồng minh vào ngày đầu tiên thành công, th́ có tin Iraq nào là bắn hoả tiễn Scud, lẫn đột kích qua đất Saudi Arabia, quân t́nh bắt đầu hơi nản chí v́ ai nấy đều đếm ngày trở về với gia đ́nh, mà nay thấy chiến dịch thả bom có lẽ sẽ kéo dài rất lâu mới thắng.
Ngoài những buổi họp hằng này với Bộ Chỉ Huy, N. phải lo điều động tiếp liệu y khoa tranh dành với xe cộ chuyên chở vũ khí, xăng nhớt và bom đạn, N. phải nhắc khéo cho Tướng chỉ huy chú ư th́ mới khả quan. Cũng may là chiến dịch thả bom kéo dài hơn cả tháng nên tiếp liệu quân y gần như được đầy đủ khi tới ngày đánh bộ (Ground Day) N. cũng phải đi tiếp xúc với Quân y Quân đoàn, lo kế hoạch tản thương và liên lạc với các nhà thương MASH và CSH (Combat Support Hospital). Sư đoàn của N. cấp số được hai MASH và hai CSH hỗ trợ và một-hai Evacuation Hospital phụ thêm MASH có 60 giường bệnh và có thể di chuyển 100% với sư đoàn. CSH có 200 giường bệnh, to hơn nên khó di chuyển hơn. C̣n Evacuation Hospital th́ quá lớn 400 giường nên gần như hoàn toàn không di chuyển theo sư đoàn được.
MASH có hai pḥng mổ và có độ 16 bác sĩ chuyên môn giải phẫu từ tổng quát cho tới chuyên về lồng ngực hay năo khoa. MASH tuy di chuyển được, nhưng cũng mất phải ít nhất một-hai ngày mới dọn đi được, nên với t́nh thế chiến tranh tạm thời hiện nay của Mỹ (AirLand battle) MASH cũng khó mà đáp ứng nhanh chóng được. (Sau ngày tấn công trên bộ, Sư đoàn chiến xa của N. tràn qua Iraq như thế chẻ tre, đoàn xe MASH không kịp chạy theo, dựng lên chữa trị, lại chạy theo tiếp được).
V́ có tin là lính Iraq có thể dùng chất Thallium đầu độc vào nước do tin của pḥng 2 Hành Quân Sư Đoàn (T́nh báo do Trung tá K.A. chỉ huy –về sau được thăng chức Đại Tướng làm Giám Đốc Nha Quốc Gia An Ninh), N. cũng đi bắt liên lạc và tổ chức các buổi học thêm về chữa trị và pḥng ngừa các bịnh sinh hoá như nerve agents, chất phóng xạ, anthrax, và bolulism.
Các nhà thương MASH và CSH (gọi nhanh là CASH) và Evac Hospital phần đông là các đơn vị trừ bị và National Guard. N. đi liên lạc thăm viếng các đơn vị đó và được biết các bác sĩ trừ bị đó đa số đều có pḥng mạch tư đang làm ăn khá giả nay bị động viên bất ngờ. Có ông Trung tá bác sĩ than thở với N. là ông ta phải khai bankrupcy v́ tiền sở phí overhead quá tốn v́ mới trang bị pḥng mạch tối tân. Ông bác sĩ nào, ông bác sĩ nấy đều than như bọng, nhưng lỡ kư hợp đồng với nhà binh rồi đành chịu vậy. Đâu có ông nào ngờ bị trưng tập phải sang đóng ở vùng sa mạc này đâu. Phần đông các bác sĩ trưng tập đó đều có làm cho nhà binh một số năm hiện dịch rồi xin ra khỏi nhà binh, nhưng vẫn muốn giữ cấp bậc và mong làm đủ năm cho có hưu trí về sau. Mấy ông lư lẽ là sau Việt Nam đâu c̣n đánh nhau to nữa, hoà b́nh cả đến 15-16 năm rồi, mà nếu có đánh nhau to là đánh với Nga sô th́ ai nấy đều khủng hoảng hết mà các ông ấy có sẵn trong trừ bị th́ khi bị trưng tập sẽ nhẩy lên lon cao ngồi trên, ngồi chốc ở mấy chỗ đỡ bị nguy hiểm hơn những bác sĩ ṭ te mới bị động viên.
Trong lúc đó, t́nh h́nh chiến sự thay đổi không ngừng. Đại tướng Schawarzkopf đă bí mật dàn trận đánh làm Iraq trở tay không kịp. Trước khi chiến dịch oanh tạc, Tướng S., bày mưu cho Iraq biết là ông ta tập trung cả bốn Quân đoàn: Quân đoàn XVIII gồm có Sư đoàn Nhảy Dù Hoa kỳ và Sư đoàn Lê Dương Pháp, Quân đoàn VII gồm có ba sư đoàn thiết giáp, trong đó có Sư đoàn 1 và 3 Thiết Giáp Hoa Kỳ, và một sư đoàn thiết giáp Anh quốc, Quân đoàn Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Quân đoàn Ả rập gồm có lính của Ai cập, Saudi Syria, Kuwait v.v… Tướng S. bầy trận như là Quân đoàn XVIII và Quân đoàn Thuỷ quân lục chiến sẽ đánh thẳng tràn từ Saudi sang Kuwait, Quân đoàn VII Thiết giáp và Quân đoàn Ả rập sẽ đánh ngay ở ngă ba biên giới Saudi Arabia, Iraq và Kuwait.
Tướng S. cũng làm như sẽ dùng Thủy quân lục chiến đổ bộ xung phong lên bờ biển trên tỉnh Kuwait city vào hậu cần địch. Ông ta quảng cáo Thủy quân lục chiến tập trận đổ bộ thành ra Iraq tập trung quân lính thật kiên cố ở ngă ba biên giới và biên giới giữa Kuwait và Saudi Arabia và ở bờ biển phía Bắc Kuwait. Iraq xây nhiều hàng rào kẽm gai chằng chịt với hố sâu cộng với ḿn (nghe nói Iraq đă rải 10 triệu ḿn trên biên giới ba nước). Đă thế c̣n có những rănh sâu đổ đầy dầu để đốt lên ngăn cản chiến xa và có chiến xa Iraq nằm sẵn để bắn vào quân đội đồng minh (killing field). Chỗ đó Iraq cho là chỗ hướng tấn công của đồng minh khi đồng minh tưởng chỗ đó là chỗ yếu-soft spot-không có ḿn hay hố sâu.
Đó là chưa kể chuyện mà tất cả quân đồng minh đều e sợ là vũ khí hoá học. Iraq lại có tụi Vệ binh cộng hoà (Republican Guards) gồm các đơn vị tinh tú nhất được trang bị với chiến xa và các vũ khí tối tân nhất gồm chừng 150.000 quân. Saddam Hussein dùng tụi Vệ binh cộng hoà này làm Tổng trừ bị đóng ở ngay biên giới Bắc Iraq và Kuwait để sẵn sàng đánh xuống thẳng chỗ biên giới nào bị chọc thủng.
Trong lúc không quân đồng minh oanh tạc ngày đêm không ngừng cắt đứt các trục lộ giao thông, tiếp tế cho các sư đoàn Iraq vùng Kuwait và tàn phá các năo truyền tin cộng với sự “neutralize” không quân Iraq đó th́ Tướng S. ra lệnh cho Quân đoàn XVIII Nhảy dù và Lê Dương Pháp thay đổi chỗ đóng quân đi về phía Tây rất xa khỏi biên giới ba nước. Quân đoàn VII Thiết giáp cũng đổi chỗ ra phía Tây ngoài khoảng biên giới được pḥng vệ kiên cố. Quân đoàn Ả rập thay thế chỗ Quân đoàn Nhảy dù.
Trong khoảng thời gian từ ngày 17 tháng Giêng cho đến ngày tràn đánh bộ 27 tháng Hai, đường quốc lộ Tap Line song song với biên giới lúc nào cũng rầm rộ xe cộ di chuyển cả ngàn xe tăng lẫn đại bác cộng với xe vận tải chở bom đạn và xăng nước. V́ Iraq không có không quân và vệ tinh dọ thám nên quân địch không biết chiến trận mới. Đă thế, dù biết Iraq cũng trở tay không kịp, không thể nào đào hầm hố và gắn ḿn thêm hai biên giới hơn v́ không quân đồng minh tàn phá bất cứ xe cộ nào di chuyển cả ngày lẫn đêm.
Ngày ngày nghe thuyết tŕnh t́nh h́nh đồng minh và địch, N. thấy tội nghiệp cho lính Iraq. Các lính biên giới phần đông ít học và bị miễn cưỡng phục vụ trong quân đội. Ăn uống th́ thiếu thốn và chỉ được phát một bữa ăn rất thanh đạm, và ngày đêm lúc nào cũng mang máng sợ bom rớt ngay trên đầu. Tuy vậy, số lính Iraq trốn đầu hàng sang Quân đoàn VII của N. tương đối ít, vài trăm… Sở dĩ như vậy là v́ chiến tranh tâm lư của Iraq rất tàn bạo và có tin có toán công an đi tới các đơn vị ngoài biên giới và xét trong túi ai có khăn trắng th́ bị xử tử ngay.
Thêm nữa, cũng như hồi ở Việt Nam, không quân Mỹ dùng B52 thả bom truyền đơn xuống vùng địch rải rác các tờ chiêu hồi viết bằng tiếng Ả rập bảo là cầm các tờ chiêu hồi đó ra đầu hàng sẽ được đón tiếp tử tế. Các toán công an đó cũng sẽ giết ngay những người nào mà trong túi có những tờ chiêu hồi đó. Thêm vào đó khi B52 rải bom truyền đơn chiêu hồi, các sĩ quan Iraq cấm binh lính ra khỏi hầm hố mà chia nhau ra nhặt và thủ tiêu tất cả các truyền đơn đó. Rất đắc lực là địch quân nhồi sọ khá tốt vào các toán quân Iraq ít học là nếu bị bắt hay đầu hàng với Hoa Kỳ th́ sẽ bị giết ngay (v́ lính Hoa Kỳ không có đạo Hồi giáo). Thành ra, tin t́nh báo cho biết, nhiều lính Iraq đào ngũ không xuống phía Nam đầu hàng quân đội đồng minh mà trốn ngược lên phía Bắc về với gia đ́nh ẩn nấp.
Có một lần, quân đoàn VII có bắt được một lính Iraq sang đầu quân. Khi tra vấn th́ được biết, hắn ta là một bác sĩ bị động viên bổ xung đi lái chiến xa. Thảo nào khi đánh tràn đường bộ sang Iraq, lính địch đầu hàng nhanh chóng và tan ră khá nhanh.
Ngày 21 Febuary 1991 (hay Ground day minus 3), Sư đoàn 1 Thiếp giáp Hoa Kỳ 1st Armored Division (1AD), đóng ở Forward Assembly Area (FAA) Garcia gần biên giới Iraq bắt đầu bắn pháo binh sang đất địch hai ngày liền.
Ngày 23 Feb (G-1), Trung đoàn 4 Trực thăng thuộc 1AD, sai một Đại đội trực thăng Apache AH-64 tấn công thám thính sang Iraq trong vùng hành quân của 1AD.
Ngày hôm sau, 24 Feb. (G-Day), Tiểu đoàn 19 Công binh của 1AD chọc thủng 250 chỗ rộng tám thước qua mô đất pḥng tuyết địch ở biên giới để sửa soạn cho 1AD tràn qua. Lúc 12 giờ trưa, Quân đoàn VII báo động cho 1AD biết là sửa soạn tấn công 18 giờ trước kế hoạch định trước. Đúng ra là ngày G-Day chỉ có Sư đoàn 1 Bộ binh (1ID) và Sư đoàn Thiết giáp Anh quốc (1AD-UK) tràn đánh sang mà thôi, để địch tin tưởng mà dồn quân vào chỗ ngă ba biên giới Kuwait, Iraq và Saudi Arabia. Sau đó ngày G+1, Sư đoàn 1AD và Sư đoàn 3 Thiết giáp Hoa Kỳ (3AD) mới đánh bọc hông sang Iraq. Nhưng v́ thấy địch tan ră nhanh chóng ở mọi tuyến, nên Quân đoàn VII ra lệnh cho 1AD đánh sớm hơn 18 tiếng dự định, cũng v́ vậy mà N. hỏng kế hoạch định trước nên bị cắt đứt liên lạc với Tổng Hành Dinh Tướng Sư đoàn trưởng 1AD. 1AD quá mạnh thế đánh như chẻ tre đi đến đâu th́ địch (v́ địch quân ở biên giới là đơn vị yếu, phần đông là tân binh quân dịch) mới bắn vài phút đă đầu hàng ngay.
Cơn hăng say chiến thắng làm quân Mỹ lăn xả tấn công luôn vào đơn vị thiện chiến Republican Guard của Iraq một cách hùng hổ, nên địch quân chỉ chống cự một chút lát rồi cũng bỏ chạy luôn.
1AD tiến quá nhanh đến nỗi các xe tăng và trực thăng sáng này G+3 th́ hết nhiên liệu, phải cho tiếp tế mới đánh tiếp được.
Lúc 5 giờ chiều ngày G+3, có tin là sẽ ngưng chiến, Tướng Sư đoàn trưởng 1AD, Thiếu Tướng R. G. (về sau thăng chức Đại Tướng Tham Mưu Phó Lục Quân) bèn ra lệnh tập trung tất cả pháo binh, trực thăng Apache và chiến xe, dồn đánh mạnh mẽ để tiêu diệt tàn quân của Iraq Republican Guard càng nhiều càng tốt trước khi lệnh ngưng chiến được ban hành vào 8 giờ sáng ngày 28 Feb 1991. Đêm đó, suốt cả đêm, súng đạn, rockets bay ngợp trời như pháo bông thi đua tàn phá.
Chiều hôm đó, N. bay đi thăm trạm cứu thương của Tiểu đoàn 2-1 trực thăng tấn công Apache, khi đáp xuống th́ y tá báo tin ngay cho N. biết coi chừng đáp nhầm phải các bom cluster chưa nổ mà Không quân Hoa Kỳ rải đầy rẫy vào chỗ địch quân đóng lúc trước. N. cũng được tin là xe của Đại tá Tham Mưu Trưởng cán phải bom bị nổ tung, nhưng hên là ông ta không bị sao cả, chỉ bị một cơn hú vía mà thôi.
Khi bay trên đất địch, N. trông thấy đằng xa ở giữa sa mạc lố nhố một đám đông lính đứng ngồi lổm xổm, bay lại gần th́ hoá ra đó là lính tù binh Iraq đầu hàng. Thật là một cảnh tượng lạ, cả đến hơn trăm lính tù binh, người th́ buộc khăn trắng trên cánh tay hay trên đầu, người th́ cầm khăn trắng, mà chỉ có hai xe HMVV (jeep kiểu mới) với vài lính Quân cảnh Mỹ đứng gác mà thôi, chả có hàng rào kẽm gai ǵ cả. Trông thấy họ có vẻ sung sướng mà đầu hàng. Hỏi ra th́ được biết, đám tù binh đó mới đầu hàng, đang được tập họp ở sa mạc để được di chuyển đến trại tập trung tù binh.
N. vào gặp Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Apache, Trung tá W. kể lại là 36 giờ đầu khi bắt đầu tấn công, ông ta không được nghỉ ǵ cả, lúc th́ bay tấn công, lúc th́ ở bộ chỉ huy lo điều động tấn công. Ông ta kể rằng có lúc ông ta bay tới gần chỗ có địch quân trú đóng, mới có bắn một vài tràng chỉ thiên th́ bất th́nh ĺnh cờ trắng bay phất phới tùm lum cả lên. Ông ta bèn ra lệnh cho các trực thăng dưới quyền ngưng bắn (on hold), ông ta chỉ sợ các trực thăng của các đơn vị khác hay pháo binh yểm trợ phía sau không biết là địch quân đă đầu hàng rồi mà vẫn bắn diệt th́ đám quân đă đầu hàng rồi sẽ bị tàn sát một cách quá đáng. Trong một lúc tâm t́nh chân thật, ông ta kể là từ trước tới nay, ông ta rất hăng say chiến đấu bắn phá, nhưng lúc này, ông ta thấy chán nản v́ sự phá hoại, khổ sở, tàn khốc của chiến tranh. Thêm vào đó, Trung đoàn 2 Thiết giáp Hoa kỳ có tiếng là rất hăng say tận diệt quân Iraq sẽ tiến tới sau máy bay trực thăng, ông ta không biết họ có nới tay cho đám tàn binh đă đầu hàng rồi hay không?
N. được Trung tá W. sai lính dẫn đi xem hầm trú ẩn của quân Iraq gần đó. Lúc đó, gió băo cát (shamal) đă bắt đầu thổi tới, N. từ chối không tránh băo cát mà vội lấy khăn che mặt mũi và đeo kính để đi xem nơi trú ẩn đóng quân của Iraq. Ngoài các xe vận tải bị cháy đen thui chỉ c̣n sườn xe mà thôi, có nhiều dụng cụ sửa xe kềm kẹp bỏ ngổn ngang, hỏi ra, hóa ra đó là một trạm quân cụ của Iraq. Tới một hầm trú ẩn của Iraq, N. cảm thấy tội nghiệp cho lính Iraq, phải sống quá thiếu thốn, bẩn thỉu (kém hơn cả Việt Nam lúc trước), vài đồ đạc, quần áo dơ dáy, nghèo nàn, vứt tung toé chung với một vài băi phân. Chung quanh hầm hố vẫn c̣n phảng phất mùi thuốc súng lẫn với khói của các xe vận tải c̣n cháy. Thượng sĩ S. tỉnh bơ chui xuống một hố rănh trú ẩn dưới đất, mặc dầu N. can ngăn coi chừng ḿn bẫy hay là bị nhiễm bởi chất hoá học. N. chỉ đứng ngoài cửa hầm ngó vào và hét coi chừng mà thôi. Chắc Thượng sĩ S. nghĩ rằng tụi Iraq v́ quá hoảng sợ đâu có tinh thần chiến đấu ǵ đâu, phải lo bỏ chạy trốn hay đầu hàng, nên đâu có thời giờ gài bẫy ḿn mà sợ. Chuyện đó cũng đúng thật, v́ sau đó chả có báo cáo nào về ḿn bẫy cả. Nhưng theo N. cẩn tắc vô áy náy vẫn hơn. Sự thật th́ chỉ có tin là quân đồng minh dẫm phải bom bi cluster của Mỹ hay đă tinh nghịch (hay dại dột) nhặt cất dấu bom bi làm kỷ niệm, rồi v́ một lư do nào đó làm rớt ra nổ tung bị thương. Thượng sĩ S. có lấy được vài tách uống trà bằng nhôm rẻ tiền, và nhặt được một khăn chùm đầu mà dân Ả rập thường dùng, N. khuyên phải giặt kỹ v́ coi chừng rận chấy hay có thể bị dính chất hoá học.
Sau đó N. trở lại lều của Trung tá W. và dùng cơm trưa ở đó (Meal Ready to Eat hay MRE). Vừa ăn, ai nấy tuy mệt nhưng nhẹ nhơm v́ chiến tranh gần như đă xong. Radio kể là địch tan ră và đầu hàng cả chục ngàn người. Radio c̣n chế diễu là Saddam Hussein đang học bài “Mother of all battles”. Radio c̣n chế diễu là tự nhiên Không quân Iran lại được tăng cấp số quá nhanh v́ cả trăm máy bay tối tân của Iraq khi bay sang Iran để lánh nạn, nay bị chính phủ Iran tịch thu.
Tới lúc này th́ tinh thần chiến đấu của 1AD lên quá cao. Quân lính bàn tán là sẽ tới lúc Iraq được xem “Mother of all parades” ở ngay tại Baghdad. Thêm vào đó là nếu Iraq thua to như vậy, th́ trong tương lai, đối như các nước bại trận như Đức quốc xă hay Nhật bản, th́ chỉ trong ṿng độ 20 năm sau, dân chúng Mỹ lại sẽ tranh nhau mua xe Iraq vừa rẻ lại vừa tốt tràn ngập thị trường Mỹ.
Đài phát thanh Mỹ, lúc này bắt đầu hàng ngày đề cao cảnh giác lính Mỹ đừng nhặt bom, lựu đạn chưa nổ để làm kỷ niệm v́ đă nhiều lính Mỹ bị tử thương v́ cố ư nhặt, dấu bom đạn chưa nổ đem về làm kỷ niệm. Có tin lúc đầu là có hai bác sĩ bị tử thương, như vậy về sau kiểm điểm th́ Bộ Tư Lệnh Mỹ xác nhận chỉ có một bác sĩ chết như vậy mà thôi. (khi về lại Mỹ thăm gia đ́nh, sau đó M. em vợ của N. ở New York City kể lại là M. có nhận được message long distance để lại trong recording machine, đúng lúc sau khi M. hay tin trên radio là có một bác sĩ bị tử thương, M. hoảng hốt v́ sợ đó là tin gia đ́nh báo cho biết có tang). Nhưng may quá, M. gọi lại th́ được biết chỉ là một cú điện thoại liên lạc gia đ́nh thường mà thôi. Sở dĩ như vậy là v́ trên tivi hay trong radio họ có báo tin người bị tử thương nhưng không nói tên họ để cho họ báo tin cho gia đ́nh biết trước.
Bây giờ là đầu tháng Ba, mùa Xuân ở sa mạc, gió bắt đầu thổi mạnh hơn, shamal (băo cát) xảy ra thường xuyên và kéo dài lâu hơn. Gần như là cứ hai, ba ngày lại có một shamal, kéo dài từ một đến ba ngày. Khi băo cát xảy ra th́ lều vải dễ bị kéo sập như chơi nếu không đóng cọc cột chặt. Ban ngày lái xe phải đóng cửa kín mít. Đă nóng, lại nóng thêm. Đă thế, cát thổi lại cứ tung làm trời mặc dù bữa trưa cũng tối mịt không trông thấy ǵ cả nếu quá độ năm thước. Có lần N. lái xe Jeep Cherokee, đi từ trại này sang trại nọ chỉ cách có mấy cây số mà đi loanh quanh, lạc tùm lum cả lên, đến nỗi phải chịu thua mà lần ṃ lái xe trở về trại cũ! Sở dĩ như vậy là mặc dù lúc đó là giữa trưa, nhưng băo cát làm tối mịt, gió thổi quá mạnh, đường đi không thấy ǵ hết v́ cát phủ bay che hết tất cả các dấu vết chỉ đường (như rănh đất hay một vật làm chỉ điểm-một xác chết của một con cừu chẳng hạn). Mặc dầu trên xe có compass nhưng cũng không ích lợi cho lắm v́ không có điểm ngắm mà tính toạ độ. Hơn nữa N. sợ cán lạc đà hay lái vào một hầm hố rănh sâu th́ c̣n khổ hơn. N. bèn đậu xe lại định tâm th́ may thay có một xe HMMV từ từ xuất hiện tới, N. bèn lái theo sau th́ buồn cười là xe này đi về Tổng Hành Dinh của N. nên N. lại trở về chỗ cũ.
Ở trong trại cũng rất khổ v́ băo cát, dù có chăn bít bùng kỹ đến đâu, cát bụi vẫn lọt vào lều và phủ đều lên bàn ghế, ghế bố. Lúc đầu N. c̣n cố phủi giữ bụi thường xuyên hằng ngày, nhưng sau đó, N. chịu thua v́ như công dă tràng, mới phủi xong th́ cát lại bay tới phủ lên như cũ. Thôi đành sống với cát bụi vậy. Ban ngày th́ đeo kính và che mặt, c̣n đêm th́ choàng khăn mỏng lên che khắp mặt mũi mà ngủ. Nếu nóng quá v́ hơi thở qua mũi làm nóng, th́ N. phải nằm nghiêng cho khăn xoả xuống như thế hơi thở có chỗ thoát ra. Chứ nếu ngủ mà không che mặt th́ phổi hít đầy cát dễ như chơi. Khi ăn uống cũng vậy làm sao che đồ ăn được. Lúc đầu N. c̣n chê không ăn khi có băo cát, nhưng sau đó cũng phải ăn tưới hạt sen, v́ phải ăn để mà sống.
Lúc này quân lính bắt đầu bàn tán ngày trở về với gia đ́nh. Trước hết v́ phần lớn sư đoàn đóng ở biên giới Kuwait và Iraq, họ tiên đoán là ngày nào sẽ trở về Saudi. Không ai biết rơ ngày nào rút quân về Saudi cả. Ai nấy đều bồn chồn, hỏi cấp trên th́ không có ai biết cả, người th́ đồn đó là tùy Đại Tướng S., người lại bảo đó là tùy Tổng thống Bush, c̣n người th́ nói đó là tùy Liên Hiệp Quốc, người th́ kết án Saddam Hussein không chịu nhượng bộ đầu hàng v.v ..v.v
Tóm tắt ai nấy đểu sống trong một khung cảnh hoang mang, chán nản, v́ đời sống càng ngày càng khổ cực, v́ càng ngày càng nóng hơn và bị băo cát nhiều hơn.
Có nhóm sĩ quan và lính thuộc Sư đoàn Tiếp liệu th́ tếu và thực tế hơn, họ chung tiền góp lại mỗi người đóng một số tiền bằng nhau và mỗi người sẽ chọn tiên đoán ngày nào sẽ trở về gia đ́nh, người nào đoán trúng ngày trở về (hay ngày gần nhất) sẽ được thưởng số tiền đó để tổ chức một bữa nhậu nhẹt chung hay làm ǵ đó tùy người thắng cuộc.
T́nh h́nh chiến tranh th́ tương đối êm. Mặc dầu vậy mỗi ngày mật lệnh vẫn được áp dụng. Khi đi đến gần tới cổng, th́ lính gác sẽ nói một câu trong đó có mật hiệu, người đi vào trại phải trả lời chữ mật hiệu đáp lại. Cũng chỉ v́ vẫn có tin là Iraq và tụi Palestine đồng minh địch vẫn t́m cách khủng bố phá hoại.
Đám tàn quân Iraq ngày ngày khoảng từ 200 đến 300 người vẫn tới đầu hàng đều đều. Phần nhiều họ đầu hàng v́ do lời đồn là sẽ được cho ăn uống tử tế. Lẽ dĩ nhiên là họ rất vui mừng được lĩnh MRE (Meal Ready to Eat) và các chai nước suối cho khỏi đói khát. Nhưng sau đó ăn măi MRE (cả lính Mỹ cũng vậy) ai nấy đều chán phè nên lính bèn đổi MRE ra MRI (Meal Rejected by Iraqis).
Số tù binh càng ngày càng lên cao, nên N. phải lo thêm tiếp liệu thuốc men cho cấp số tăng gia. Thêm vào đó, khi đến gần thành phố th́ không những có quân Iraq ra đầu hàng, mà lại c̣n có hàng trăm ngàn dân Iraq gồm cả ông già, bà cả lẫn con cái cũng tới xin quân đội Mỹ cho ăn uống và che chở cho khỏi bị tụi tàn quân Iraq phá nhiễu. V́ kho tiếp liệu thuốc men đâu có dự trữ thuốc con nít, nên N. lại phải chạy lên chạy xuống lo đi mua hay đặt lệnh phát thuốc đàn bà con nít như sữa, trụ sinh v.v…
Do những dân trú nạn và lính Iraq đầu hàng, Tướng Sư đoàn trưởng biết được rất nhiều chuyện dă man do lính của Saddam Hussein gây ra chẳng hạn như xử bắn bừa băi, treo cổ cả dân lẫn lính nào mà có ư hay tư tưởng phản lại với hắn. C̣n hiếp dâm hay đốt phá nhà th́ xảy ra thường xuyên, ai nấy đều căm thù Saddam.
Bây giờ là lúc củng cố thu nhặt tất cả các thuốc kiểm soát (controlled substance) như Atropine, P, Valium, Cipro (để pḥng ngờ chiến tranh hoá học và vi trùng), mà sư đoàn đă phát cho lính trước để dùng khi cần, N. cũng phải lo phổ biến và căn dặn lính phải uống Chloroquine để ngừa sốt rét.
Các bác sĩ lúc này cũng nóng ḷng chờ lệnh về nhất là các bác sĩ reservist sẽ được về trước v́ Quốc Hội Mỹ muốn đỡ tốn tiền phải trả lương phụ trội cho reservist. Thế là các bác sĩ đó nhao nhao lên chất vấn N. đ̣i biết ngày về. N. chả có tin nào cụ thể cả, toàn là tin đồn, nên N. chỉ trả lời yêu cầu của họ để đốc thúc Pḥng 1 (Nhân viên) mà thôi.
Thêm vào đó N. lại phải xúc tiến và phổ biến chương tŕnh pḥng ngừa bệnh tâm thần để quân lính Mỹ khi trở về gia đ́nh tránh bỡ ngỡ có thể gây phiền nhiễu trong đời sống gia đ́nh hằng ngày. Sở dĩ như vậy là khi lính vắng mặt xa gia đ́nh một thời gian khá lâu, thường thường lính là phái nam hay làm chủ gia đ́nh, người vợ đương nhiên phải quyết định lấy một ḿnh trong cuộc sống hằng ngày. Nay tự nhiên lại có người trở về đ̣i tước lại quyền chủ gia đ́nh, thay đổi cách sắp đặt, hay nói cách nuôi con cái nên khó tránh phải xích mích trong gia đ́nh. N. bèn lại phải bàn với Y sĩ Đại úy L.S. chuyên môn về thần kinh tâm trí làm một chương tŕnh giảng dậy, khuyên bảo pḥng ngừa cho binh lính. (Nữ Bác sĩ này hơn mười năm sau đó được thăng chức Chuẩn tướng).
Ngày 6 March 1991, sư đoàn N. được đề cử một số lính được trở về nhà trước, lẽ dĩ nhiên, đám lính này được chọn trong các đơn vị tới Saudi Arabia sớm nhất. Những lính may mắn này thật sự không may mắn lắm v́ được lệnh trở về đă lại phải gấp rút mà lại c̣n phải sửa soạn quần áo chỉnh tề để diễn binh chiến thắng ngay ngày hôm sau tại phi trường Dharan mờ người.
Rồi sau đó, có lệnh sắp xếp các đơn vị để rút quân từ tiểu đoàn hay từ loại bệnh viện (Evacuation Hosp., Combat Support Hospital CSH hay MASH). Ai nấy đều vui mừng v́ như vậy là chắc được về chứ không phải bị ở lại để yểm trợ cho Kuwait.
Tướng Sư đoàn trưởng ra lệnh cho hậu cứ sư đoàn hoàn tất cấp tốc một chỗ tạm trú tập trung quân trước khi trở về Đức quốc. Thế là cả hậu cứ điên đầu cả lên, dựng lều, lát sàn giữa sa mạc, lập PX, che dù làm một khu giải trí gồm có chỗ cho ban nhạc chơi, chỗ ăn hamburger miễn phí, chỗ xem ciné video và một lều lớn để điện thoại. Tội nghiệp cho Tiểu đoàn Công binh, lúc đánh nhau phải hốc hác đi đầu để phá các mô đất, chiến lũy, lấp rănh tuyến sâu, phá ḿn nay phải phá các kho đạn của Iraq và cộng thêm phải xây khu giải trí kể trên.
Nhưng rồi cũng xong trong ṿng bốn tuần, một khu giải trí khang trang được hoàn thành. Lính khi tới đó được tự do ăn hamburger, hot dog và uống Coca, Sprite thả dàn, đó là một cái sướng ở sa mạc v́ ở ngoài mặt trận nào có McDonald đâu mà ăn. Sau đó có ban nhạc của USO và của Sư đoàn 1AD chơi nhạc mỗi đêm. Ngoài ra có bốn “rạp xinê” với video với free popcorn mà thưởng thức. Chỉ tiếc là lính khi về tới đó đâu có thời giờ thưởng thức đâu. Ngoài vụ dựng lều hay dẹp lều lại đi rửa xe gấp rút cho hết cát bụi trong ṿng có vài ba ngày để cho đúng kịp ngày chuyển vận lên tàu.
Trong lúc nôn nao sửa soạn ngày về th́ bỗng nhiên thường dân Iraq lánh nạn lại lên cao quá nhiều v́ tàn quân phản công trở lại đánh tụi Iraq Shiites nổi loạn gần thành phố Basra. Cả trăm ngàn thường dân bị thương tới tràn ngập các trại cứu thương của Mỹ. Thượng cấp bèn ra lệnh vài Evacuation Hospital, MASH trở lại vùng giao binh để giúp chữa trị. Có một Evacuation Hospital đă dọn về gần phi trường Dharan để chờ ngày trở về Mỹ, quân lính đang thu xếp quân nhu th́ được lệnh phải trở lại Iraq. Đương nhiên th́ tất cả sĩ quan và binh lính buồn ra mặt. Vài tên lính quá khích đă rạch lốp xe và phá máy xe v́ như vậy sẽ khỏi phải lái xe trở lại Iraq. Lẽ dĩ nhiên các tên lính đó đă bị bắt và cho ra Toà án Quân sự Mặt trận xử án. Thật là tối dạ! Đă sống qua những lúc khó khăn, khổ nhất trong khi chiến đấu mà nay lại bị khổ v́ một lúc bốc đồng.
Lúc này N. vẫn phải hằng ngày đi họp với Bộ chỉ huy và lo các công việc hành chánh như viết giấy ban khen, giấy phê b́nh điểm, giấy chứng minh xin ban huy chương cho các nhân viên dưới quyền. Cái khó là ở ngoài sa mạc N. đâu có thư kư đánh máy photocopy ǵ đâu. Thành ra N. lại có màn phải đi đề mẹc xin xỏ các trưởng pḥng khác v́ họ có xe expand-van đủ nhân viên, dụng cụ pḥng làm việc. Tất cả các giấy tờ kể trên đều phải hoàn tất cho các binh lính trước khi họ bước lên máy bay trở về đơn vị cũ của họ.
Ngày 20 tháng Tư năm 1991, N. được tin nhóm quân y của Sư đoàn 1AD của N. sẽ được trở về Đức quốc trong ṿng 10 ngày sắp tới. Tài xế của N. vui mừng ra mặt và ngày ngày gạch xoá những ngày c̣n lại trên tờ lịch hàng tháng.
Lúc này thời tiết càng ngày càng quá nóng. Buổi trưa nhiệt độ lên tới 110 độ là thường có khi lên tới 130 độ! Nóng nắng dă man, buổi trưa là lúc nóng nhất, N. ra chỉ thị của Tướng Sư Đoàn là từ 10 giờ sáng tới 4 giờ chiều không ai được tập thể dục hay chơi bóng chuyền ngoài nắng ǵ cả. Sở dĩ như vậy là v́ có một lính ở Quân đoàn VII chơi bóng chuyền giữa trưa bị xỉu rồi chết luôn. Hơn nữa N. đề nghị với Sư đoàn trưởng cho phép tất cả các binh lính làm việc trong khoảng thời gian đó được cởi áo ngoài, chỉ cần mặc áo thung mà thôi.
Nắng quá nóng đến nỗi N. phải quẹt qua mặt với khăn ướt nước để cho bốc hơi mát mỗi 15 phút phải làm lại. Như vậy gần như là lúc giữa trưa chả có ai làm việc được đắc lực ǵ cả. Lẽ nhiên ai nấy đều phải uống nước thường xuyên, mỗi ngày tám lít nước. Thượng sĩ Thường vụ của N. khuyên cho các chai nước suối vào bít tất dài thấm nước tránh để cho nước bốc đi, th́ quả thật chai nước giữ như vậy th́ uống mát hơn là không bọc chai. Đại đội Tổng hành dinh của N. được một tí xa hoa hơn là v́ khi chiếm đóng một Câu lạc bộ sĩ quan của Iraq có xung công được một kho chứa đầy nước hộp và chai Perrier có nước chanh do đó uống nước dễ chịu hơn.
Ngày 24 tháng tư khoảng 9 giờ tối một trận băo cát khá mạnh thổi tới, vài lều bị thổi tung cả lên, cây chống lều đập vào đầu của vài người, máy bay trực thăng bị lật đổ.
May là lều N. được đóng rất vững chắc chỉ bị gió cát bay vào thôi, nhưng đêm đó vô cùng khổ cực, đă rất nóng (tuy là đêm nhưng vẫn nóng v́ là gió nóng) lại bị cát bụi mù làm rất khó thở. Hôm sau N. phải đi vào các bệnh viện dă chiến thăm các thương binh, may là không có ai bị tử thương cả. Cũng may là nhờ có neurosurgeon sẵn tức trực mổ.
Ba ngày hôm sau th́ có lệnh rút trại đi vào KKMC Hotel Kelly để làm thủ tục lên máy bay về Đức. Gọi là Hotel Kelly nhưng chính thực ra thật là một hangar lều lớn chứa tới 200 đến 300 người. Mỗi người chỉ có đủ chỗ cho một ghế bố nên rất ồn ào nóng bực khó chịu. Ai nấy đều nôn nao chờ về nên chả ai ngủ được mấy. Hôm sau cả ngày chỉ ngồi chờ lúc th́ cho quan thuế tới khám xét rất khắt khe. Sở dĩ có sự khám xét kỹ càng là v́ thượng cấp lo là có vài tên lính tối dạ đem theo đạn dược ḿn chưa nổ làm chiến lợi phẩm để rồi vô ư làm nổ như vị bác sĩ quân y tử thương lúc trước. Thành ra tất cả quân trang đồ đạc ở trong Duffel bag phải đổ ra bầy trên ghế bố để được khám xét. Lệnh ban ra là nếu ai bị bắt tàng trữ đồ cấm đó th́ cả đại đội đều bị ở lại. Thành ra không những quan thuế tới khám xét trước đó, Thượng sĩ Thường vụ Đại đội đă khám rồi. Ở ngoài lều có để vài thùng phuy xăng lớn trống để ai có tàng trữ đồ cấm đem đổ vào đó trước khi khám xét th́ không có tội ǵ cả.
Ăn th́ được tụi Ấn độ đấu thầu cho ăn gà quay, hamburger và trái cây tươi thành ra cũng tạm được. Binh lính đồn tếu là được ăn thả cửa như vậy cho béo để khi về nhà vợ con gia đ́nh nhận ra được.
Ngày hôm sau th́ được dời vào nhà tạm trú tại ngay phi trường ngủ qua đêm để trưa hôm sau tất cả bước lên máy bay phản lực Boeing 747 của hăng Towers Airlines do quân đội Mỹ thuê. Lính và sĩ quan cấp úy th́ ngồi ở coach class, c̣n các tướng tá th́ được ngồi ở first và business class. Khi máy bay thực sự cất cánh, tất cả đều mừng rỡ và vỗ tay. Ngó qua cửa sổ N. trông thấy các dăy lều vải trên sa mạc mà thấy bùi ngùi nhưng không có một tí luyến tiếc ǵ cả.
Bay độ năm giờ sau th́ máy bay đáp xuống phi trường Nuremberg. Khi bước xuống cầu thang th́ đă có thảm đỏ trải sẵn và có lính dàn cờ cùng Tướng Tư lệnh Phó sư đoàn hậu cứ đứng đón bắt tay từng người. Chả bù lúc đi xuất quân chả có ai đi tiễn cả. Đến nỗi thời tiết lúc đó rất đẹp mát như ở Dalat lúc trước không như lúc đi trời mưa dầm dă như là Trời cũng buồn cho lính phải đi chinh chiến. Thật là khác với nhiệt độ 130 độ ở sa mạc Saudi Arabia. Khi đi toilet được dùng toilet bowl với flush th́ thấy sướng, thế mới thấy cái ǵ bị cấm hay không được dùng mặc dầu tầm thường cũng thấy sướng, cũng như ăn mặn măi mà được ăn một bữa chay mà thấy thoải mái (hay là ăn cơm/ăn phở?). Sau đó tất cả lên xe buưt về trại ở Ansbach. Gần tới trại, N. ngó lên các building bên đường mà thấy bồi hồi, vài bà Đức mập ú vẫy tay chào mừng vui cười. Cũng chỉ v́ một phần buôn bán ở tỉnh nhỏ Ansbach bị ế ẩm v́ phần lớn binh lính đi xa nay họ được tin là lính trở về lại nên họ vui tươi chung.
Tới doanh trại th́ đă có ban nhạc sư đoàn đă tề tựu chỉnh tề đánh nhạc hân hoan chào đón. Cờ xí và vải chăng Welcome Home thêu với yellow ribbon được gắn tùm lum ở cửa trại và ở các dăy nhà trong trại. Hơn nữa hàng trăm thân nhân với quần áo loè loẹt rực rỡ mặt mày hân hoan chờ đón thân nhân trên xe bước xuống. V́ quá đông người, nên N. không thấy bà xă đâu. Kiếm một lúc cũng không thấy, đang hơi buồn th́ có một người vợ một người bạn nói là có trông thấy vợ N. cũng đang lùng kiếm. Lúc đó N. mới thấy nhẹ nhàng trong ḷng.
Ngày hôm sau có tin trên báo là tỉnh Ansbach là tỉnh đêm qua có trận động đất nhỏ. (Vùng Ansbach cả tới mấy trăm năm nay, không có động đất ǵ cả). Ai nấy đều ngạc nhiên, về sau vỡ lẽ là nhịp lên xuống ân ái trong pḥng the đêm qua của cả trăm ngàn binh lính đă synchronized đến nỗi làm rung chuyển động đất. Đó là chuyện tếu để chấm dứt bài thư ngoài mặt trận: Desert Shield/ Desert Storm.
Nguyễn Dương
Y sĩ Đại Úy QL VNCH
Cựu Y sĩ Đại Tá QL Hoa Kỳ
Cựu Y sĩ Trưởng Sư Đoàn 1 Thiết Giáp Hoa Kỳ
(bài này được cập nhật January 2021)