Tìm Kiếm Bài Đã Đăng
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
© 2012
Nguyên bản tiếng Anh của BS Phạm Hiếu Liêm viết trên The Journal Of The Arkansas Medical Society số tháng Giêng 2012.
DS Nguyễn Hiền phiên dịch qua tiếng Việt.
(Nguồn trích dẫn)
Bệnh mất trí nhớ là một tiến trình trong đó ký ức và những kỹ năng nhận thức bị mất lần lần theo từng cấp độ, cho tới khi người bệnh trở thành mất năng lực nghề nghiệp và/hoặc không thể tham gia sinh hoạt xã hội được nữa.
Suy giảm nhận thức nhẹ (Mild cognitive impairment - MCI) là một dấu báo trước của bệnh mất trí nhớ. Bệnh nhân MCI có thể trải nghiệm được sự mất ký ức (dạng lãng trí) hoặc gặp trở ngại trong ngôn ngữ hay gặp khó khăn trong khả năng nhận biết về không gian v.v..., nhưng họ vẫn còn có thể tạm sinh hoạt được. Trong những năm gần đây, càng ngày càng có nhiều bệnh nhân tìm đến sự chăm sóc y tế cho tình trạng MCI của họ.
Bệnh mất trí nhớ là một vấn đề chính của tuổi già. Trong khi chỉ có 5% dân số ở độ tuổi 65 chịu ảnh hưởng; tỉ lệ này lên tới 50% ở tuổi 90. Bệnh Alzheimer, đứng riêng biệt hoặc đi kèm với rối loạn tuần hoàn não là nguyên nhân của hơn 80% bệnh mất trí nhớ ở người cao tuổi.
Bệnh Alzheimer gây ra sự chết sớm của tế bào thần kinh, dẫn tới sự teo vỏ não một cách đáng kể, đặc biệt là ở thùy thái dương và thùy trán. Sự xuất hiện chất beta-amyloid ở ngoại vi tế bào sẽ tạo nên những mảng keo bám vào tế bào thần kinh và sự thoái hóa của protein TAU bên trong tế bào, chúng sẽ hình thành các đám rối sợi thần kinh xoắn xít trong vùng võ não đã bị hư hỏng. Những chất cytokines gây viêm như IL1, IL6, TNF-alpha hay SB-100 cũng có dự phần vào. Những phần tử microglia (tiểu thần kinh đệm) trong hệ thần kinh trung ương mang tác động tương tự như những đại thực bào (macrophages) trong mạch máu ngoại biên.
Trong quá khứ, hai yếu tố nguy cơ chính đã được xác định là tuổi tác, như đã nêu ở trên, và di truyền. Một tỉ lệ nhỏ của những ca bệnh Alzheimer (5% hoặc ít hơn) có nguồn từ cả hai gen PS1 và PS2; có những tình trạng di truyền theo gen trội (autosomal dominant) bắt đầu trước tuổi 60. Vài ca bệnh Alzheimer mang nguồn gốc từ sự đột biến của các gen tiền chất beta-amyloid (beta-amyloid precursor), định vị trong nhiễm sắc thể 21. Những bệnh nhân mang hội chứng Down thường có những mạng rối thần kinh ở lớp vỏ não trong lứa tuổi 30 (người mắc hội chứng Down có 3 nhiễm sắc thể 21 thay vì 2 - chú thích của người dịch). Yếu tố mang tính di truyền chính cho nguy cơ bị bệnh Alzheimer là sự hiện diện của gen APO E4, trong khi trung bình 20% dân Mỹ có mang gen này, thì người ta tìm thấy gen đó trong 40% trường hợp mắc bệnh Alzheimer ở Hoa Kỳ.
Trong thập niên cuối, tất cả những yếu tố rủi ro có thể đưa đến bệnh tim mạch - như là tăng huyết áp, tăng lượng mỡ trong máu, hội chứng biến dưỡng và bệnh tiểu đường loại 2 - đã được xác định là những yếu tố nguy cơ không những cho chứng mất trí nhớ do rối loạn tuần hoàn não, mà cũng còn là yếu tố nguy cơ để có thể mắc bệnh Alzheimer. Hiện nay hiếm khi chúng ta thấy một bệnh nhán lãng trí do rối loạn tuần hoàn não theo như mô thức cổ điển, bởi vì phần lớn bệnh nhân đều mắc chứng lãng trí phức hợp (tức là do tuần hoàn não cộng chung với Alzheimer, xem hình 1 bên trái). Một sự gia tăng nhanh chóng mức Insulin do bởi sự đề kháng chống lại insulin hiện nay được cho là một yếu tố nguy cơ đưa đến bệnh Alzheimer cao hơn là sự hiện diện của gen APO E4.
Một bản đánh giá về thần kinh tâm lý học đầy đủ do bác sĩ chuyên khoa về ngành này là một đòi hỏi để có thể xác định bệnh nhân thuộc vào dạng nào trong hàng loạt dạng MCI khác nhau. Những bác sĩ lâm sàng có thể thăm dò bệnh mất trí nhớ qua những phương tiện trợ giúp như MMSE (Mini-Mental State Examination) hay SLUMS (St. Louis University Mental Status Examination). Ðiều quan trọng là phải phát hiện và điều trị chứng trầm cảm hay nói sảng nơi những bệnh nhân bị mất trí nhớ. Nhiều bệnh nhân cao tuổi mang chứng rối loạn tuyến giáp trạng; nhiều người già bị mất trí nhớ còn bị thiếu sinh tố B12 và một số nhỏ gặp vấn đề có liên quan đến chất folate, mà chúng có thể giải quyết qua trị liệu.
Những phương pháp scan hình các chức năng của não như phương pháp chụp cắt lớp deoxyglucose PET hay Ceretec SPECT cho ta thấy một mô hình bất thường tiêu biểu nơi những người mắc bệnh Alzheimer, tuy nhiên độ nhạy bén chỉ ở mức 76%. Hiện nay phương pháp này không là phương pháp được khuyến khích trong lâm sàng tổng quát theo cách làm việc hàng loạt. Một phương pháp scan PET não bộ khác - dùng những phối tử (ligands) của beta-amyloid - mang độ nhạy cao trong việc phát giác và có thể định lượng được mức tích lũy của beta-amyloid và có thể sử dụng được khi làm chẩn đoán lâm sàng. Người ta vẫn còn có những cố gắng định dạng những yếu tố biomarkers trong dịch não tủy và trong huyết tương để có thể chẩn đoán bệnh Alzheimer một cách tin cậy.
Những dược phẩm dùng để trị bệnh Alzheimer được FDA mới đây chấp thuận cấp phép là những chất ức chế cholinesterase (Donepezil, Galantamine và Rivastigmine) và một chất kháng glutamine bán phần (Memantine). Hiệu ứng của những dược phẩm này trên khả năng nhận thức của bệnh nhân còn khiêm nhường; tuy nhiên chúng tỏ ra hữu hiệu trong sự cải thiện khả năng của bệnh nhân trong việc tự chăm sóc bản thân, và làm giảm căng thẳng nơi những người phải chăm sóc họ, đưa đến kết quả là kéo dài được thời gian trước khi phải vào dưỡng đường, và trì hoãn được ngày qua đời vì bệnh Alzheimer. Người bệnh cũng sống lâu hơn, vì bác sĩ hiện nay có thể tiết giảm sự sử dụng thuốc trị bệnh tâm thần nơi những người cao tuổi bị mất trí nhớ, sau khi có những nghiên cứu đã phát giác ra số tử vong cao được coi là có liên quan đến những biến chứng đột quỵ và đau tim.
Trong năm 2010, người ta ước tính là có 76.496 người dân trong tiểu bang Arkansas bị mắc bệnh Alzheimer; tính chung cả nước Hoa Kỳ, con số này được phỏng chừng là 6 triệu người. Cái giá mà xã hội phải chịu thật đáng kinh ngạc. Tỉ lệ này tăng ở Arkansas và những tiểu bang nằm trong Vòng đai Bệnh Tiểu đường (những tiểu bang này có hơn 11% cư dân bị mắc bệnh tiểu đường). Những sự lan tràn của chứng béo phì hiện nay, hội chứng biến dưỡng và bệnh tiểu đường loại 2 có liên quan đến những yếu tố môi trường như tiêu thụ quá nhiều đồ ăn và nước giải khát có một lượng đường fructose cao quá mức, ăn tràn lan những thực phẩm có chứa Sản phẩm Hóa đường Cao cấp (dietary Advanced Glycation End products - d-AGE) do bởi nấu đồ ăn ở nhiệt độ cao có bỏ thêm đường hoàn nguyên (reducing sugars, như glucose, vài dạng maltose v.v… - chú thích của người dịch), chất thịt và chất béo (những món nướng và chiên). May thay, những số liệu đã khẩn thiết kêu gọi chúng ta phải cố gắng để chế ngự hội chứng rối loạn biến dưỡng qua tập luyện thân thể, theo những chế độ ăn uống thích hợp, và dùng những thuốc hạ lượng mỡ trong máu có thể làm giảm bớt nguy cơ mắc bệnh Alzheimer trong tuổi già.
Trong tương lai gần, cơ quan FDA có thể sẽ phê chuẩn phương pháp scan PET trên beta-amyloid trong chẩn đoán lâm sàng cùng chung với việc sử dụng thuốc có tác dụng loại chất beta-amyloid, những biện pháp này có thể hữu ích cho những bệnh nhân bị bệnh Alzheimer do gen di truyền trội. Tuy nhiên, trong phần lớn trường hợp những người Mỹ cao tuổi, một sự thay đổi toàn diện trong nếp sinh hoạt (qua tập thể dục) và trong chế độ ăn uống có thể mang lại lợi lạc cao trong việc ngừa bệnh tim óc.
Hình 1 (nhấn vào để xem rõ hơn)