H́nh minh họa đính kèm – diễn tiến tự động
Sau 30/04/75, cảm giác “Chóng mặt” không mấy xa lạ đối với một số người vượt biên và chưa từng quen với sóng to gió lớn trên đại dương. Khi mới được bước chân lên đất liền, họ cũng có những cảm giác khác thường mà họ cũng gọi là “Chóng mặt." Rồi đến những ngày hay tháng sau đó, nếu chưa quen với tốc độ “chóng mặt” của xe cộ hoặc tàu bè, họ cũng có cảm giác gọi là “chóng mặt." Những thân nhân may mắn xuất ngoại đoàn tụ bằng máy bay cũng có thể cảm giác “Chóng mặt” này trong những ngày đầu “lên xe hoa” hay trong thời gian kế tiếp.
Mặt khác, tiết Thu Đông lạnh lẻo ở xứ lạ quê người và nhiều loại viêm nhiễm cũng có thể gây cảm giác gọi là “chóng mặt." Thậm chí “chóng mặt” cũng có thể xảy ra khi dùng một vài loại thuốc để trị các triệu chứng chủ quan mà bệnh nhân gọi là “chóng mặt."
Như vậy, từ ngữ hay triệu chứng “chóng mặt” mang nhiều nghĩa khác nhau tùy theo từng người và từng bối cảnh (hay “ngữ cảnh” — theo ngôn từ của “người bên ấy”).
Triệu Chứng “Chóng mặt” đă được bàn dài dài trên sách báo, radio, TV, Internet, v.v… Bài viết này chỉ bàn ngắn gọn tập trung vào những điếm cơ bản nhất về xác định thuật ngữ, chẩn-trị và pḥng ngừa Chứng “Chóng mặt." Một số thuật ngữ, Anh ngữ và chữ tắt sẽ được ghi chú trong dấu ngoặc đơn. Mục tiêu của bài viết nhầm cung cấp thông tin chung; các trường hợp cá biệt cần được tư vấn và chẩn-trị bới các nhân viên ư tế hữu trách.
Định nghĩa Chứng “Chóng mặt”
Bước đầu tiên trong việc giải quyết vấn đề “Chóng mặt” là xác định từ ngữ mà người bệnh dùng để mô tả cảm giác chủ quan của ḿnh. Có 3 loại cảm giác chính cần phân biệt:
1. cảm giác choáng váng xảy ra khi cảm thấy người nghiêng ngả như khi bước chân xuống tàu hoặc say rượu;
2. cảm giác xây xẩm như khi thấy đầu óc bay bổng lâng lâng, bước chân không vững như muốn té hoặc nằm xuống ngay;
3. cảm giác “chóng mặt” theo đúng nghĩa của vertigo là cảm thấy ḿnh quay tṛn hay đồ vật quay tṛn quanh ḿnh.
Bài này chỉ bàn về “Chóng mặt” (vertigo) theo định nghĩa thứ ba này.
T́nh trạng “Chóng mặt” (vertigo) này không những có thể gây biến chứng mà c̣n có thể gây tổn thương về thể chất lẫn tâm thần cho bệnh nhân lẫn người nuôi bệnh.
Chi tiết về Triệu chứng của “Chóng Mặt”
Các triệu chứng phổ biến nhất của chóng mặt bao gồm:
• cảm giác quay (spinning) của người bệnh hay ngoại vật
• cảm giác nghiêng ngả (tilting) hoặc đu đưa (swaying)
• cảm giác giảm thăng bằng
Những cảm giác này “đến rồi đi," có thể kéo dài vài giây, vài giờ hoặc vài ngày. Bệnh nhân có cảm giác tồi tệ hơn khi di chuyển đầu, thay đổi vị trí (đứng lên, quay ḿnh), ho hoặc hắt hơi.
Cùng với chóng mặt, người bệnh có thể:
• ói mửa hoặc cảm thấy buồn nôn
• nhức đầu hoặc nhạy cảm với ánh sáng và tiếng ồn
• thấy một thành hai, khó khăn lúc nó hoặc nuốt, hoặc cảm thấy yếu lả
• thấy hụt hơi thở hoặc đổ mồi hôi, tim đập nhanh
Nguyên nhân gây “Chóng Mặt”
Những nguyên nhân phổ biến nhất của “Chóng Mặt” bao gồm:
• Tai Trong (H́nh 8) có vấn đề
• chấn thương ở đầu có thể ảnh hưởng đến hệ thống tiền đ́nh (vestibular) và dẫn đến “Chóng Mặt."
• thuốc có thể làm hỏng tai và dẫn đến “Chóng Mặt”
• bệnh đau đầu loại đau nửa đầu (migraines) có thể gây một t́nh trạng gọi là chóng mặt “migrainous," Loại “Chóng Mặt” này thường xảy ra cùng với đau đầu, mặc dù đôi khi không có đau đầu.
• năo bộ có vấn đề, như đột quỵ (stroke) hoặc thiếu máu cục bộ thoáng qua (TIA), chảy máu trong năo, hoặc đa xơ cứng (MS) cũng có thể gây chóng mặt.
Riêng về Tai Trong, ba trong số các loại nguyên nhân phổ biến nhất của chóng mặt do vấn đề Tai Trong là:
1. Chóng mặt lành tính cấp do định vị (BPPV) là một loại chóng mặt phát triển do tích tụ chất canxi ở tai trong và gây nên đóng sỏi ở ống tai trong (canalithiasis – H́nh 9-10)
2. Bệnh Ménière là nguyên nhân gây lặp đi lặp lại các cơn chóng mặt, mất thính giác, và gây tiếng lạ trong tai. Những cơn chóng mặt của bệnh Ménière có thể kéo dài vài phút hoặc vài giờ. Nguyên nhận của bệnh Ménière có lẽ là do một tích tụ của chất lỏng vào tai trong.
3. Viêm thần kinh tiền đ́nh (Vestibular neuritis – H́nh 11), c̣n được gọi là Viêm Tiền Đ́nh (Labyrinthitis), có lẽ gây ra bởi virus dẫn đến sưng xung quanh một dây thần kinh. Những người có vestibular neuritis phát triển chóng mặt bất ngờ, nghiêm trọng, buồn nôn, nôn mửa, và khó khăn đi bộ hoặc đứng lên; những vấn đề này có thể hết sau một vài ngày. Một số người cũng phát triển các khó khăn trong buổi điều trần tại một trong những tai.
Làm sao Trị “Chóng mặt”
Như đă nêu trên, cần xác định “Chóng mặt” (vertigo) để điều trị thật sớm, nếu “Chóng Mặt” (vertigo) đi cùng với bất kỳ cảm giác nào sau đây:
• nhức đầu mới xảy ra hoặc nhức đầu trở nặng
• sốt hơn 100.4ºF (38ºC)
• thấy một thành hai hoặc gặp khó nh́n thấy rơ ràng
• khó nói hay nghe
• yếu mềm một cánh tay hoặc chân • ngất bất tỉnh
• tê mất cảm giác hoặc có cảm giác châm chích trên da
• đau ran ngực
• nôn mửa không ngừng
• chóng mặt mà kéo dài trong vài phút hoặc nhiều hơn nếu:
• là người lớn lớn tuổi
• đă từng có một cơn đột quỵ
• có các yếu tố nguy cơ cho đột quỵ (cao huyết áp, bệnh tiểu đường, hút thuốc lá)
Nếu “Chóng Mặt” chỉ “đến rồi đi," nhưng không có bất kỳ vấn đề nêu trên, bệnh cũng cần làm một cuộc hẹn khám chuyên viên y tế để thực hiện một số xét nghiệm vật lư và thử nghiệm khác.
Điều trị “Chóng Mặt” nhằm mục đích trị nguyên nhân tiềm ẩn (nếu t́m được), giảm các triệu chứng khó chịu và giúp phục hồi chức năng.
Phương pháp trị liệu có thể bao gồm:
• thuốc chống histamine (antihistamine), chẳng hạn như các thuốc cần toa của Bác sĩ như meclizine (Antivert ®), hoặc không cần toa như dimenhydrinate (Dramamine ®), hay diphenhydramin (Benadryl ®).
• thuốc chống nôn mửa (anti-nausea drugs), chẳng hạn như promethazine (Phenergan ®), metoclopramide (Reglan ®) hay ondansetron (Zofran ®).
• thuốc an thần, chẳng hạn như diazepam (Valium ®), lorazepam (Ativan ®) hay clonazepam (Klonopin ®) đa số những thuốc này làm cho buồn ngủ, và không nên dùng chúng trước khi làm việc hoặc lái xe. Chỉ nên đi theo toa thuốc để điều trị triệu chứng chóng mặt nghiêm trọng, và nên ngừng thuốc khi các triệu chứng đă giảm.
• Phuơng pháp cơ động Epley
Phương pháp này c̣n được gọi là ‘Canalith repositioning’ — ‘Canalith repositioning’ là một phuơng có thể được đề nghị cho những người có Chóng mặt lành tính cấp do định vị (BPPV).
Ban đầu, việc điều trị sẽ được thực hiện bởi một bác sĩ hoặc y tá trong văn pḥng bằng cách di chuyển đầu của bệnh nhân vào các vị trí nhất định, được gọi là cơ động Epley (xem h́nh).
Sau đó, nguời bệnh có thể được đưa ra hướng dẫn để thực hiện các động tác tương tự ở nhà, nếu cần thiết. Các động tác sẽ khuyến khích bộ tích tụ canxi di chuyển vào một phần của tai trong; tại nơi đó, nó sẽ được thu hút trở lại. Bệnh nhân có thể bắt đầu cảm thấy khá hơn ngay lập tức sau khi điều trị hoặc trong ṿng một hoặc hai ngày.
• Phuơng pháp hồi phục thăng bằng.
Hầu hết bệnh nhân với chứng chóng mặt đều muốn giữ đầu của họ yên một vị trí. Tuy nhiên, giữ đầu bất động có thể làm cho khó khăn hơn để đối phó với cứng chóng mặt. Phục hồi chức năng có thể giúp mọi người với chóng mặt do bị thương tích ở hệ thống tiền đ́nh (vestibular). Hệ thống này bao gồm các phần của tai trong và hệ thần kinh, kiểm soát cân bằng. Sự phục hồi chức năng hoạt động bằng cách giúp bộ năo của người bệnh điều chỉnh phản ứng của nó với những thay đổi trong hệ thống tiền đ́nh. Việc điều trị cũng có thể giúp tập cho thị giác và các giác quan khác ‘học’ cách để đền bù. Liệu pháp này tỏ ra hữu ích nhất khi được bắt đầu càng sớm càng tốt sau khi bệnh nhân phát triển chóng mặt. Trong thời gian phục hồi chức năng, một chuyên gia trị liệu những người sẽ dạy cho bệnh nhân thực hiện bài tập ở nhà. Ví dụ, bạn có thể bắt đầu bằng cách tập trung vào một đối tượng với một nền trắng và di chuyển đầu của bạn từ từ về bên phải và trái, rồi lên và xuống. Bênh nhân sẽ thực hiện bài tập này trong nhiều phút 2-3 lần mỗi ngày.
Pḥng ngừa “Chóng mặt” (vertigo)
• Giảm nguy cơ té ngă cũng là một phần của phương áng điều trị chứng “chóng mặt." Nếu bênh nhân có khó khăn khi đứng hoặc đi bộ v́ của chóng mặt, bệnh nhân sẽ có nguy cơ bị té ngă. Ở người lớn tuổi, té ngă có thể dẫn tới biến chứng nghiêm trọng, chẳng hạn như một xương hông bị găy. Để giảm thiểu nguy cơ bị té ngă, cần loại trừ các mầm nguy hiểm trong nhà, chẳng hạn như dây điện lỏng và thảm trơn, và tránh đi bộ trong các vùng không quen thuộc mà lại thiếu ánh sáng.
Tóm lại, chứng “Chóng mặt” có nhiều nguyên nhân và cần được chẩn đoán phân biệt với những cảm giác tuy cũng được gọi là “Chóng mặt” nhưng không thuộc loại “Chóng mặt” mà Y khoa phân loại là “Vertigo." Các cách điều trị và pḥng ngừa chứng “Chóng mặt” (Vertigo) không thể đem dùng cho các cảm giác “chóng mặt” khác. Chỉ có phân biệt và điều trị sớm Vertigo mới giảm được những nguy cơ của biến chứng, dư chứng và tàn phế do “Chóng mặt."
Xem H́nh minh họa bên trên – diễn tiến tự động
Bs Nguyễn Nguyên